I Ti-mô-thê 03:06
“Mọi người đều cho sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Thiên Chúa đã được tỏ ra trong xác thịt, đã được xưng nghĩa trong tâm thần, đã được các thiên sứ trông thấy, đã được giảng ra trong các dân ngoại, đã được tin cậy trong thế gian, đã được cất lên trong sự vinh quang.” (I Ti-mô-thê 3:16).
“Mọi người đều cho” (G3672) là một trạng từ, có nghĩa: Tất cả mọi người đều công nhận mà không tranh cãi; tất cả mọi người đều tuyên xưng mà không tranh cãi.
“Sự mầu nhiệm” (G3466) là một danh từ. Nghĩa đen: Sự mầu nhiệm; sự giấu kín; sự bí mật. Nghĩa bóng (có mạo từ xác định G3588 đứng trước như trong câu này): Các nguyên lý hành động của Thiên Chúa mà chỉ có những ai thuộc về Ngài mới có thể nhận thức.
“Của sự tin kính” (G2150) là một sở hữu danh từ, có nghĩa: Của lòng tin cậy và tôn kính, đặc biệt là đối với Thiên Chúa; của sự tin cậy Thiên Chúa và sống thánh khiết theo Lời của Thiên Chúa.
“Là” (G2076) là một động từ, ngôi thứ ba, số ít, có nghĩa: Là; thì; ở.
“Lớn lắm” (G3173) là một tính từ, có nghĩa: Lớn; lớn lắm; vĩ đại; rất nhiều; nhiều lắm; vô số.
“Thiên Chúa” (G2316) là một danh từ, chỉ bất cứ một thần linh nào, từ Thiên Chúa, cho đến các thần linh do Thiên Chúa tạo nên, như các thiên sứ, cho đến các thiên sứ phạm tội, trở thành ma quỷ, và các tà thần trong các tôn giáo và tín ngưỡng của loài người.
Trong nguyên ngữ của Thánh Kinh, dù là tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng A-ra-mai, hay tiếng Hy-lạp, đều có sự phân biệt rõ ràng khi dùng các danh từ chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa và khi dùng các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha. Đó là:
-
Không dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ chung cả ba thân vị hoặc bất cứ thân vị nào trong ba thân vị của Thiên Chúa, mà văn mạch đã giúp cho chúng ta biết đó là thân vị nào, như trong I Ti-mô-thê 3:15-16, văn mạch đã cho chúng ta biết danh từ Thiên Chúa chỉ về thân vị Ngôi Lời: “Nhưng nếu ta chậm trễ, thì con biết cần phải xử sự như thế nào trong nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa Hằng Sống, trụ và nền của lẽ thật. Mọi người đều cho sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Thiên Chúa đã được tỏ ra trong xác thịt, đã được xưng nghĩa trong tâm thần, đã được các thiên sứ trông thấy, đã được giảng ra cho các dân ngoại, đã được tin cậy trong thế gian, đã được cất lên trong sự vinh quang.”
-
Dùng mạo từ xác định cho các danh từ chỉ riêng về Thiên Chúa Đức Cha.
Tuy nhiên, khi Thánh Kinh được dịch sang tiếng Anh hay các ngôn ngữ khác thì cách dùng ấy đã bị mất đi.
G2316 không có mạo từ xác định G3588 đi chung, nếu dùng cho Thiên Chúa, thì được dịch là “Thiên Chúa” chỉ chung Ba Ngôi Thiên Chúa hoặc bất cứ thân vị nào trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
G2316 có mạo từ xác định G3588 đi chung, nếu dùng cho Thiên Chúa, thì được dịch là “Đức Chúa Trời” để chỉ thân vị Thiên Chúa Đức Cha.
“Đã được tỏ ra” (G5319) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định [1] và thụ động cách, chỉ một sự việc thụ động đã xảy ra và hoàn thành, có nghĩa: Đã được làm cho hiện ra điều trước đây bị giấu kín; đã được tỏ ra cho thấy, cho biết điều trước đây bị giấu kín; Đã được làm cho hiểu biết bởi sự giảng dạy; Đã làm cho mọi người nhận biết sự có mặt của một người.
“Trong” (G1722) là một giới từ chỉ vị trí, có nghĩa: Ở trong; bên trong; phía trong.
“Xác thịt” (G4561) là một danh từ. Nghĩa hẹp: Phần thịt của thân thể loài người hoặc loài thú. Nghĩa rộng: Thân thể xác thịt của loài người hoặc loài thú. Nghĩa bóng: Bản tính xác thịt của loài người.
“Đã được xưng nghĩa” (G1344) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định và thụ động cách, có nghĩa: Đã được công bố là công bình; đã được tỏ ra là công bình; đã được làm cho trở nên công bình.
“Tâm Thần” (G3588 G4151) là một danh từ có mạo từ xác định đi chung, chỉ phần thân thể thiêng liêng của loài người. Xem “Linh”.
“Linh” (G4151) là một danh từ, có nghĩa thuộc thể là: Hơi thở được thổi ra từ mũi hoặc miệng; gió; làn gió, luồng gió. Về thuộc linh thì:
-
Nếu không có mạo từ xác định (G3588) đi chung, khi dùng cho Thiên Chúa, được dịch là “thần” để chỉ bản thể của Thiên Chúa, hoặc dịch là “thần trí” để chỉ ý chí của Thiên Chúa, hoặc dịch là “linh” hay “thánh linh” khi có chữ thánh (G80) kèm theo, để chỉ sức sống, năng lực, thẩm quyền, ân tứ (các sự ban cho) ra từ Thiên Chúa qua Đức Thánh Linh.
-
Nếu không có mạo từ xác định (G3588) đi chung, khi dùng cho loài người được dịch là thần trí, tinh thần, khuynh hướng.
-
Nếu có mạo từ xác định (G3588) đi chung và dùng cho Thiên Chúa, thì được dịch là Đấng Thần Linh, hoặc dịch là Đức Thánh Linh, khi có chữ thánh (G80) kèm theo.
-
Nếu có mạo từ xác định (G3588) đi chung và dùng cho thiên sứ được dịch là thần linh; nếu dùng cho thiên sứ phạm tội thì được dịch là tà linh.
-
Nếu có mạo từ xác định (G3588) đi chung và dùng cho loài người được dịch là tâm thần để chỉ về thân thể thiêng liêng của loài người.
“Được trông thấy” (G3708) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định và thụ động cách, có nghĩa: Được trông thấy; được nhìn thấy; được nhận biết.
“Các thiên sứ” (G32) là một danh từ số nhiều. Nghĩa hẹp: Các sứ giả; những người được sai đi để truyền đạt ý muốn của cấp trên. Nghĩa rộng: Các thiên sứ của Thiên Chúa; Các thần linh do Thiên Chúa dựng nên để phụng sự Ngài.
“Đã được giảng ra” (G2784) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định và thụ động cách, có nghĩa: Đã được công bố trước dân chúng.
“Các dân ngoại” (G1484) là một danh từ số nhiều. Nghĩa hẹp: Những dân tộc; những bộ tộc; những đám đông; những tập thể. Nghĩa rộng: Trong Cựu Ước, những dân tộc không phải là dân I-sơ-ra-ên. Trong Tân Ước, Phao-lô dùng để gọi những con dân Chúa không thuộc chủng tộc I-sơ-ra-ên.
“Đã được tin cậy” (G4100) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định và thụ động cách, có nghĩa: Đã được tin cậy; đã được cho là thật và được nương cậy.
“Thế gian” (G2889) là một danh từ, có nghĩa: Thế gian; thế giới; trái đất; địa cầu.
“Đã được cất lên” (G353) là một động từ dùng với thời quá khứ bất định và thụ động cách, có nghĩa: Đã được đem lên cao.
“Sự vinh quang” (G1391) là một danh từ, có nghĩa: Sự vinh quang; sự sáng chói; sự rực rỡ; sự huy hoàng tráng lệ. Khi dùng cho Thiên Chúa thì có nghĩa: Sự cao quý, đẹp đẽ, thiêng liêng của bản tính Thiên Chúa, tức là sự cao quý, đẹp đẽ, thiêng liêng của tình yêu, sự thanh khiết, và sự công chính trong Thiên Chúa. Sự vinh hiển của Thiên Chúa là sự Thiên Chúa thể hiện cho muôn loài: tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Ngài.
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
13/11/2018