YouTube: https://youtu.be/HF4OHNEsG1k
Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL092 Đức Chúa Jesus Trong Lễ Cung Hiến
tại Giê-ru-sa-lem –
Những Người Do-thái Lại Muốn Ném Đá Đức Chúa Jesus
Giăng 10:22-42
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
- SoundCloud: Bấm vào đây
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
Kho chứa MP3 các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Kho chứa pdf các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Giăng 10:22-42
22 Bấy giờ, đã xảy ra Lễ Cung Hiến tại Giê-ru-sa-lem. Trời đã là mùa đông.
23 Đức Chúa Jesus đã đi dạo trong Đền Thờ, dưới Mái Hiên Sa-lô-môn.
24 Vậy, những người Do-thái đã nhóm chung quanh Ngài và nói: “Ngài treo linh hồn của chúng tôi cho tới khi nào? Nếu Ngài là Đấng Christ, hãy nói rõ cho chúng tôi.”
25 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Ta đã bảo các ngươi mà các ngươi không tin. Những việc mà Ta làm trong danh của Cha Ta, chúng làm chứng cho Ta.
26 Nhưng các ngươi không tin vì các ngươi chẳng phải là từ bầy chiên của Ta, như Ta đã bảo các ngươi.
27 Chiên Ta nghe tiếng của Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta.
28 Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu. Cho tới vĩnh cửu, chúng sẽ chẳng chết mất, cũng không ai cướp chúng khỏi tay của Ta.
29 Cha Ta là Đấng lớn hơn hết đã ban chúng cho Ta. Không ai có thể cướp chúng khỏi tay của Cha Ta.
30 Ta và Cha là một!”
31 Vậy, những người Do-thái đã lại nhặt đá để ném Ngài.
32 Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Ta đã tỏ cho các ngươi nhiều việc lành từ Cha Ta. Bởi sự gì của những việc ấy mà các ngươi ném đá Ta?”
33 Những người Do-thái đã trả lời Ngài: “Chẳng phải vì việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì sự phạm thượng. Bởi ngươi là người mà làm mình thành Thiên Chúa.”
34 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Chẳng phải đã được chép trong luật pháp của các ngươi: “Ta đã phán: Các ngươi là các thần” sao? [Thi Thiên 82:6]
35 Nếu luật pháp đã gọi họ là các thần, những người mà Lời của Đức Chúa Trời đã đến với họ, và Thánh Kinh không thể bỏ đi,
36 thì sao các ngươi bảo Đấng mà Cha đã biệt ra thánh và đã sai vào trong thế gian: “Ngươi phạm thượng!” Vì Ta đã nói, Ta là Con của Đức Chúa Trời?
37 Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta thì các ngươi đừng tin Ta.
38 Còn nếu Ta làm, dù các ngươi không tin Ta, các ngươi hãy tin những việc làm, để các ngươi biết và tin rằng, Cha trong Ta và Ta trong Ngài.”
39 Dù vậy, họ vẫn còn tìm cách để bắt Ngài; nhưng Ngài đã tránh khỏi tay của họ.
40 Kế đó, Ngài đã đi trở lại bên kia Sông Giô-đanh, đến nơi mà trước đó Giăng đã làm báp-tem. Ngài đã trú tại đó.
41 Có nhiều người đã đến với Ngài và nói: “Giăng đã không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người này là thật.”
42 Tại đó, nhiều người đã tin nơi Ngài.
Trong bài này, chúng ta cùng nhau học về những lời trao đổi sau cùng của Đức Chúa Jesus với những người Do-thái tại Đền Thờ, trong dịp lễ kỷ niệm sự cung hiến Đền Thờ, trước khi Ngài đi qua bờ phía đông của Sông Giô-đanh. Có lẽ Ngài đã tạm trú tại đó cho tới vài ngày trước Lễ Vượt Qua. Đó là Lễ Vượt Qua của năm 27, là ngày mà Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá để hoàn thành sự cứu chuộc loài người, theo thánh ý của Đức Chúa Trời.
Giăng 10:22-23
22 Bấy giờ, đã xảy ra Lễ Cung Hiến tại Giê-ru-sa-lem. Trời đã là mùa đông.
23 Đức Chúa Jesus đã đi dạo trong Đền Thờ, dưới Mái Hiên Sa-lô-môn.
Danh từ “ἐγκαίνια” (egkainia) /eng-kah’-ee-nee-ah – ê-kái-ni-a/ (G1456) trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là sự khánh thành hoặc sự cung hiến. Danh từ này được dùng để phiên dịch danh từ “חֲנֻכָּה” (ḥănukâ) /khan-ook-kaw’ – kha-na-ka/ (H2598) cùng nghĩa, trong tiếng Hê-bơ-rơ.
Lễ Cung Hiến được nói đến trong câu 22 là lễ hội tái cung hiến Đền Thờ lên Thiên Chúa, kéo dài tám ngày, bắt đầu từ ngày 25 tháng Kislev, theo Lịch Hê-bơ-rơ. Ngày này có thể tương đương với bất cứ ngày nào từ 28 tháng 11 tới 27 tháng 12 Tây Lịch.
Vào thế kỷ thứ nhì trước Công Nguyên, sau khi dân I-sơ-ra-ên chiếm lại được Thành Thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ từ tay Đế Quốc Seleukos, họ đã tiến hành sự thanh tẩy Đền Thờ và làm lễ tái cung hiến Đền Thờ lên Thiên Chúa. Lễ ấy được thi hành vào ngày 25 tháng Kislev năm 165 TCN (có sử liệu ghi là năm 164 TCN). Khi họ thắp chân đèn bảy ngọn trong Đền Thờ, họ tìm thấy một lượng dầu ô-li-ve chỉ đủ để thắp đèn trong một đêm. Tuy nhiên, một phép lạ đã xảy ra, khiến cho đèn vẫn cháy sáng suốt tám đêm liền, cho tới khi dầu mới được ép ra một cách tinh khiết và được đem vào Đền Thờ. Kể từ đó, mỗi năm dân I-sơ-ra-ên cử hành lễ cung hiến Đền Thờ suốt tám ngày.
Trong suốt tám ngày lễ, chân đèn chín ngọn được thắp lên. Ngọn đèn chính ở giữa được dùng để thắp tám ngọn đèn còn lại. Đêm thứ nhất, chỉ có ngọn đèn thứ nhất được thắp lên. Đêm thứ nhì, ngọn đèn thứ nhì được thắp lên, cùng chiếu sáng với ngọn đèn thứ nhất. Cứ tiếp tục như vậy cho tới đêm thứ tám thì cả tám ngọn đèn đều được thắp lên. Chân đèn chín ngọn được thắp lên tại mỗi nhà riêng, thậm chí tại mỗi phòng riêng của từng người trong nhà, tại các công sở, tại các nhà hội, và tại những nơi công cộng. Các lời chúc phước được hát lên trước khi thắp đèn, và các bài thánh ca được hát lên sau khi thắp đèn.
Ngày nay, lễ hội này được biết với tên tiếng Anh là “Hanukkah” và còn được gọi là Lễ Hội Ánh Sáng [1].
Chúng ta không biết, Đức Chúa Jesus đi dạo trong Đền Thờ, dưới Mái Hiên Sa-lô-môn nhằm vào ngày thứ mấy của Lễ Cung Hiến. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu rằng, vào năm 26, từ khi Đức Chúa Jesus về lại Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Lều Trại thì Ngài vẫn ở lại Giê-ru-sa-lem cho tới kỳ Lễ Cung Hiến. Thời gian giữa hai kỳ lễ là khoảng hai tháng.
Giăng 10:24-25
24 Vậy, những người Do-thái đã nhóm chung quanh Ngài và nói: “Ngài treo linh hồn của chúng tôi cho tới khi nào? Nếu Ngài là Đấng Christ, hãy nói rõ cho chúng tôi.”
25 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Ta đã bảo các ngươi mà các ngươi không tin. Những việc mà Ta làm trong danh của Cha Ta, chúng làm chứng cho Ta.
“Những người Do-thái” bao gồm dân chúng và cả một số những người Pha-ri-si đã chứng kiến sự Đức Chúa Jesus chữa lành người bị mù bẩm sinh và sự người ấy thờ phượng Ngài. Họ cũng được nghe những lời trao đổi giữa Ngài và những người Pha-ri-si chống nghịch Ngài, được nghe những sự giảng dạy của Ngài về Người Chăn Ngay Lành. Giờ đây, gặp Đức Chúa Jesus đang đi dạo trong khuôn viên của Đền Thờ, họ vây chung quanh Ngài để yêu cầu Ngài xác nhận rằng, Ngài là Đấng Christ.
Thành ngữ “treo linh hồn” có nghĩa là khiến cho tâm trí bị căng thẳng, chờ đợi một sự gì đó.
Mặc dù Đức Chúa Jesus chưa bao giờ khẳng định cách rõ ràng: “Ta là Đấng Christ”. Nhưng qua những lời phán và những việc làm của Ngài, bất cứ ai cũng có thể nhận biết Ngài chính là Đấng Christ. Thực tế, đã có nhiều người xưng nhận Ngài là Đấng Christ và đã trở thành môn đồ của Ngài. Vì thế, câu trả lời của Đức Chúa Jesus đã nói lên sự cứng lòng của những người không tin nhận những lời giảng dạy của Ngài, cũng không tin rằng, những việc Ngài đã làm trong danh của Đức Chúa Trời chính là những việc làm của Đấng Christ.
Giăng 10:26-27
26 Nhưng các ngươi không tin vì các ngươi chẳng phải là từ bầy chiên của Ta, như Ta đã bảo các ngươi.
27 Chiên Ta nghe tiếng của Ta. Ta biết chúng và chúng theo Ta.
Đức Chúa Jesus đã nói lên một lẽ thật khác. Đó là những ai đã nghe Ngài giảng dạy, đã thấy những phép lạ Ngài làm mà vẫn không tin Ngài thì họ không phải là chiên của Ngài. Ngài không phải là người chăn dắt họ. Những ai đã tin nhận Ngài là chiên của Ngài. Họ nhận biết sự giảng dạy của Ngài. Ngài biết họ và họ theo Ngài.
Vào thời điểm ấy, phần lớn dân I-sơ-ra-ên vẫn mong chờ sự xuất hiện của Đấng Christ. Nhưng cũng phần lớn trong họ không thể chấp nhận Đấng Christ xuất thân cách tầm thường, như con trai của một người thợ mộc tại Na-xa-rét, không hề theo học một giáo sư nào trong dân I-sơ-ra-ên. Những kẻ cứng lòng nhất còn gán ghép những phép lạ Đức Chúa Jesus làm với quyền lực của quỷ.
Ngày nay, có rất nhiều người không tin nhận Đức Chúa Jesus và sự giảng dạy của Ngài; vì họ đang thờ lạy các tà thần trong các tôn giáo, hoặc đang theo đuổi một triết lý bác bỏ sự thực hữu của Thiên Chúa. Có nhiều người chấp nhận một số lời giảng dạy của Đức Chúa Jesus về phương diện đạo đức nhưng lại không chấp nhận Ngài là Đấng Cứu Rỗi của loài người. Họ xem Ngài như giáo chủ của một số tôn giáo dạy loài người làm lành, lánh dữ. Có nhiều người tin nhận Ngài là Đấng Cứu Rỗi nhưng lại không tin Ngài là Thiên Chúa. Có nhiều người tin Ngài là Đấng Cứu Rỗi và là Thiên Chúa nhưng lại không sống theo những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã không thật lòng ăn năn tội. Họ vẫn vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus, và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh [2].
Thời đại nào cũng chỉ có một số ít người thật sự tin Đức Chúa Jesus và sống theo những lời giảng dạy của Ngài. Có một lần Đức Chúa Jesus gọi các môn đồ của Ngài là “bầy nhỏ” (Lu-ca 12:32), hàm ý, số người tin nhận Ngài không có nhiều. Một lần khác, Ngài lại phán rằng, khi Ngài đến, “Ngài sẽ tìm thấy đức tin trên đất chăng” (Lu-ca 18:8), hàm ý, khi Ngài đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian sẽ không có bao nhiêu người thật sự có đức tin nơi Ngài.
Theo thống kê vào tháng 04/2024, trên thế giới có khoảng 2,4 tỉ người xưng mình là môn đồ của Đấng Christ. Trong đó, có khoảng 1,2 tỉ người thuộc Công Giáo; khoảng 800 triệu người thuộc Tin Lành; khoảng 300 triệu người thuộc Chính Thống Giáo; và khoảng 100 triệu người thuộc các giáo hội khác. Tuy vậy, số người thật sự là môn đồ của Đấng Christ, có nếp sống giống như Đấng Christ chắc chắn là không nhiều.
Những người thật sự là môn đồ của Đấng Christ là những người thật lòng ăn năn tội, từ bỏ sự vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Họ vâng giữ Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh. Họ là chiên của Đức Chúa Jesus. Ngài là người chăn của họ. Họ thuộc về Hội Thánh do Ngài lập nên.
Giăng 10:28-29
28 Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu. Cho tới vĩnh cửu, chúng sẽ chẳng chết mất, cũng không ai cướp chúng khỏi tay của Ta.
29 Cha Ta là Đấng lớn hơn hết đã ban chúng cho Ta. Không ai có thể cướp chúng khỏi tay của Cha Ta.
Lời khẳng định của Đức Chúa Jesus trong câu 28 và 29 là niềm an ủi và khích lệ cho những con dân chân thật của Chúa.
“Sự sống vĩnh cửu” là sự sống hạnh phúc trong tình yêu và ân điển của Thiên Chúa không bao giờ kết thúc.
Sự “chết mất” là sự “bị hình phạt hư mất mãi, xa cách mặt Chúa và sự vinh quang của sức mạnh Ngài”, bị giam trong hỏa ngục cho tới đời đời (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:9; Khải Huyền 20:10-15).
Không một ai có thể cướp được con dân chân thật của Chúa ra khỏi tay của Đức Chúa Jesus Christ hay ra khỏi tay của Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Jesus Christ và Đức Chúa Trời là Thiên Chúa Toàn Năng. Đức Chúa Trời kêu gọi và chọn họ, ban họ cho Đức Chúa Jesus Christ. Đức Chúa Jesus chăn dắt họ cho tới đời đời.
Chỉ có một người sau khi tin nhận ơn cứu rỗi nhưng lại tự mình lui đi trong đức tin, quay về sống trong tội mới bị Đức Chúa Trời chặt bỏ, bị Đức Chúa Jesus Christ mửa ra.
“Ta là gốc nho thật. Cha của Ta là người trồng nho. Bất cứ nhánh nào trong Ta mà không mang trái, thì Ngài chặt bỏ nó; và bất cứ nhánh nào mang trái, thì Ngài tỉa nó, để nó mang trái nhiều hơn. [Ê-sai 18:5]” (Giăng 15:1-2).
“Vì ngươi là hâm hẩm như vậy, không lạnh cũng không nóng, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng của Ta.” (Khải Huyền 3:16).
“Vì không thể nào những người đã một lần được soi sáng, đã nếm sự ban cho từ trên trời, được trở nên những người dự phần về thánh linh, đã nếm Lời phán lành của Thiên Chúa và những năng lực của đời sau, rồi họ lại sa ngã, mà được phục hồi vào trong sự ăn năn. Vì họ đang đóng đinh Con của Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình lần nữa và họ công khai sỉ nhục Ngài.” (Hê-bơ-rơ 6:4-6).
“Vì nếu chúng ta cố ý phạm tội, sau khi đã nhận lãnh tri thức về lẽ thật, thì không còn được chừa lại cho chúng ta sinh tế chuộc những tội lỗi. Nhưng chỉ có một sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ thiêu nuốt những kẻ bội nghịch.” (Hê-bơ-rơ 10:26-27).
“Vì thà chúng nó không biết đường công chính, thì tốt cho chúng nó hơn là sau khi chúng nó biết rồi, lại lui đi về điều răn thánh đã ban truyền cho chúng nó. Nhưng, đã xảy đến cho chúng nó như lời tục ngữ chân thật: Chó liếm lại đồ nó đã mửa, heo đã rửa sạch rồi, lại lăn lóc trong vũng bùn.” (II Phi-e-rơ 2:21-22).
Nhiều người có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác và thậm chí cho ma quỷ cho sự sa ngã, phạm tội của mình. Mặc dù kẻ gây ra sự cám dỗ sẽ bị Đức Chúa Trời xử phạt nhưng mỗi người vẫn sẽ chịu trách nhiệm về sự phạm tội của mình. Vì mỗi người sẽ bị phán xét về mỗi việc đã làm và sẽ gánh lấy hình phạt cho sự phạm tội của mình (Khải Huyền 20:11-15).
“Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi bị dẫn dụ sai lạc bởi sự tham muốn của chính mình. Kế đó, sự tham muốn thành hình và kết quả tội lỗi. Khi tội lỗi đã trọn thì sinh ra sự chết.” (Gia-cơ 1:14-15).
Nói cho cùng, sự phạm tội, tức là sự vi phạm các điều răn của Thiên Chúa, là sự tự quyết định của mỗi người. Người thuộc về Chúa sẽ thà chịu mất mạng sống hơn là phạm điều răn của Thiên Chúa.
Giăng 10:30
30 Ta và Cha là một!”
Đây là lời Đức Chúa Jesus khẳng định rằng, dù Ngài là loài người nhưng Ngài cũng chính là Thiên Chúa, như Đức Chúa Trời là Thiên Chúa.
Về thần tính, Đức Chúa Jesus và Đức Chúa Trời là “một” trong sự thực hữu, trong bản tính, trong năng lực, trong uy quyền, trong ý muốn, trong lời phán, và trong hành động của Thiên Chúa.
Trong sự thực hữu: Ngài cùng tự có và có mãi trong cùng một thể trạng với Đức Chúa Trời.
Trong bản tính: Ngài là trọn vẹn trong tình yêu, trong sự thánh khiết, trong sự công chính, trong sự chân thật, trong sự thiện, trong sự đẹp như Đức Chúa Trời.
Trong năng lực: Ngài toàn năng, làm được mọi sự; toàn tri, biết hết mọi sự; toàn tại, hiện diện mọi nơi và mọi lúc như Đức Chúa Trời.
Trong uy quyền: Ngài có cùng quyền phán xét, quyền tha tội, và quyền cai trị muôn vật như Đức Chúa Trời.
Trong ý muốn, trong lời phán, và trong hành động Ngài không hề mâu thuẫn với Đức Chúa Trời.
Giăng 10:31-33
31 Vậy, những người Do-thái đã lại nhặt đá để ném Ngài.
32 Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Ta đã tỏ cho các ngươi nhiều việc lành từ Cha Ta. Bởi sự gì của những việc ấy mà các ngươi ném đá Ta?”
33 Những người Do-thái đã trả lời Ngài: “Chẳng phải vì việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì sự phạm thượng. Bởi ngươi là người mà làm mình thành Thiên Chúa.”
Những người Do-thái hiểu rõ ý nghĩa lời phán của Đức Chúa Jesus, rằng Ngài xưng mình là Thiên Chúa. Vì thế những kẻ không tin Ngài và chống nghịch Ngài đã nhặt đá để ném Ngài.
Đức Chúa Jesus đã hỏi họ một câu khiến cho họ phải xưng nhận, những việc Ngài đã làm trước mắt họ là những việc lành. Đồng thời Ngài cũng khiến cho họ thú nhận rằng, họ hiểu lời tuyên xưng của Ngài.
Thực tế, lời tuyên xưng “Ta và Cha là một” với ý nghĩa “Ta là Thiên Chúa” còn hàm ý “Ta là Đấng Christ”. Vì trong các lời tiên tri về Đấng Christ đã hàm ý, Ngài là Thiên Chúa.
“Hỡi Thiên Chúa, ngai của Ngài còn đời đời không dứt; vương trượng của Ngài là vương trượng công chính! Ngài yêu sự công chính và ghét sự gian ác; cho nên, hỡi Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ngài, đã xức dầu cho Ngài bằng dầu vui mừng bên cạnh những người dự phần với Ngài!” (Thi Thiên 45:6-7).
“Vì một con trẻ được sinh ra, một con trai ban cho chúng ta. Quyền cai trị sẽ ở trên vai của Ngài và danh của Ngài sẽ được gọi là: Đấng Lạ Lùng, Đấng Mưu Luận, Thiên Chúa Quyền Năng, Cha Đời Đời, Chúa Bình An.” (Ê-sai 9:6).
Chính vì những người Do-thái hiểu rõ ý nghĩa lời tuyên xưng của Đức Chúa Jesus nên họ kết tội Ngài phạm thượng và muốn ném đá Ngài.
Giăng 10:34-36
34 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Chẳng phải đã được chép trong luật pháp của các ngươi: “Ta đã phán: Các ngươi là các thần” sao? [Thi Thiên 82:6]
35 Nếu luật pháp đã gọi họ là các thần, những người mà Lời của Đức Chúa Trời đã đến với họ, và Thánh Kinh không thể bỏ đi,
36 thì sao các ngươi bảo Đấng mà Cha đã biệt ra thánh và đã sai vào trong thế gian: “Ngươi phạm thượng!” Vì Ta đã nói, Ta là Con của Đức Chúa Trời?
Đức Chúa Jesus đã trích dẫn Thi Thiên 82:6 trong lời phán của Ngài.
“Ta đã nói: “Các ngươi là các thần, hết thảy các ngươi là con cái của Đấng Chí Cao…”” (Thi Thiên 82:6).
Thi Thiên 82 nói về sự Thiên Chúa sẽ phán xét những người được ban cho chức vụ phán xét con dân của Ngài. Những người ấy được gọi bằng danh xưng “אֱלֹהִים” (‘ĕlōhîm) /el-o-heem’ – ê-lô-him/ (H430), một danh xưng của Thiên Chúa, được dịch là “các thần”. Cách gọi này cũng được dùng để gọi “các thẩm phán” trong Xuất Ê-díp-tô Ký 21:6.
Ý của Đức Chúa Jesus là trong Thi Thiên 82, Thiên Chúa với danh xưng “Ê-lô-him” đã gọi các thẩm phán trong dân I-sơ-ra-ên là “các Ê-lô-him”, nâng họ lên ngang bằng với Thiên Chúa trong sự phán xét dân sự của Ngài, thì sự Đức Chúa Jesus là Đấng Christ, được Đức Chúa Trời sinh ra trong lòng trinh nữ Ma-ri, xưng mình là “Con của Đức Chúa Trời” không thể bị kể là phạm thượng.
“Đấng mà Cha đã biệt ra thánh và đã sai vào trong thế gian” chính là Đấng Mê-si-a, tức Đấng Christ.
Thậm chí, nếu Đức Chúa Jesus không phải là Thiên Chúa nhưng trong chức vụ Đấng Christ, Ngài tự nâng mình lên ngang bằng với Đức Chúa Trời thì cũng không phải là phạm thượng. Vì trong chức vụ Đấng Christ, Ngài phán những gì Ngài nghe từ Đức Chúa Trời và Ngài làm những gì Đức Chúa Trời phán bảo Ngài. Vì thế mà Ngài đã phán: “Còn ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta” (Giăng 12:45).
Giăng 10:37-38
37 Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta thì các ngươi đừng tin Ta.
38 Còn nếu Ta làm, dù các ngươi không tin Ta, các ngươi hãy tin những việc làm, để các ngươi biết và tin rằng, Cha trong Ta và Ta trong Ngài.”
“Những việc của Cha Ta” là những việc Đức Chúa Trời giao phó cho Đức Chúa Jesus thi hành trong thân vị loài người của Ngài. Những việc đó bao gồm sự giảng dạy về Đức Chúa Trời và Vương Quốc Trời cho loài người; kêu gọi loài người ăn năn; chữa bệnh, đuổi quỷ, gọi người chết sống lại; dâng chính mình làm của lễ chuộc tội cho loài người; cầu thay cho những ai tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, v.v..
Nếu những lời giảng dạy của Đức Chúa Jesus không khiến cho một người tin rằng, Ngài là Đấng Christ, thì những việc làm của Ngài quá đủ để chứng minh cho người ấy Ngài là Đấng Christ. Chưa bao giờ trong lịch sử của dân I-sơ-ra-ên có tiên tri nào làm nhiều phép lạ như Ngài. Tin Đức Chúa Jesus là Đấng Christ cũng là tin rằng, Đức Chúa Trời trong Ngài và Ngài trong Đức Chúa Trời.
Lời phán “Cha trong Ta và Ta trong Cha” mang tính cách thành ngữ, nói đến sự hiệp một của Đức Chúa Trời với Đức Chúa Jesus. Vì thế, chúng ta thấy không có động từ “ở”.
“Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” hoàn toàn khác với “Cha trong Ta và Ta trong Cha”.
Trong lời cầu nguyện của Đức Chúa Jesus, trước khi Ngài chịu chết trên thập tự giá, Ngài đã cầu xin cho Hội Thánh được nên một như sự hiệp một của Đức Chúa Trời và Ngài.
“…để cho hết thảy nên một, như Cha, Ngài trong con và con trong Ngài; lại để cho họ cũng nên một trong Chúng Ta, để cho thế gian tin rằng, Ngài đã sai con.” (Giăng 17:21).
Sự “nên một” hay sự “hiệp một” của Hội Thánh đã được Đức Thánh Linh giảng dạy, qua Sứ Đồ Phao-lô:
“Vậy, nếu có sự khích lệ trong Đấng Christ, nếu có sự an ủi của tình yêu, nếu có sự thông công của thần trí, nếu có sự đồng cảm và lòng thương xót, thì các anh chị em hãy cùng một tâm tình với nhau, có cùng một tình yêu, cùng một linh hồn của một tâm trí, mà làm cho tôi vui mừng trọn vẹn.” (Phi-líp 2:1-2).
Chúng tôi xin trích dẫn phần chú giải Phi-líp 2:1-2 trong bài “Chú Giải Phi-líp 2:1-11 – Con Dân Chúa Sống Theo Gương Đấng Christ” [3].
Sự khích lệ bày tỏ sự cảm thông, hiểu biết, và mong muốn cho người mình khích lệ được thành công. Sự khích lệ trong Đấng Christ là sự con dân Chúa thể hiện sự quan tâm lẫn nhau; hiểu biết và cảm thông cho cá tính, năng lực, hoàn cảnh sống của nhau; mong cho nhau được thăng tiến và thành công trên bước đường theo Chúa. Khi chúng ta biết khích lệ lẫn nhau thì sẽ không có sự nói xấu nhau, ganh tỵ với nhau, xem thường lẫn nhau. Nhờ sự khích lệ lẫn nhau mà chúng ta thực sự thông công với nhau và gây dựng lẫn nhau, gây dựng thân thể của Chúa là Hội Thánh.
Sự an ủi bày tỏ sự cảm thông và mang lấy gánh nặng cho nhau. Sự an ủi thể hiện qua lời nói, thái độ, và việc làm. Sự an ủi là phản ứng của tình yêu trước sự người mình yêu bị lâm vào khó khăn, nghịch cảnh, tai ương, hoạn nạn, bệnh tật, bắt bớ… và thậm chí, lỡ vấp ngã, phạm tội.
Sự thông công của thần trí là sự con dân Chúa hiệp một trong thần trí, tức là hiệp một trong đức tin vào Thiên Chúa, trong đức tin vào Thánh Kinh, và trong sự hiểu biết về Thiên Chúa.
Đồng cảm là cùng chung một cảm giác và cảm xúc với nhau. Thương xót là cảm xúc đau lòng trước sự khốn khổ hoặc yếu đuối mà phạm tội của người khác.
Cùng một tâm tình là cùng suy nghĩ và ước muốn giống nhau. Cùng một tình yêu là cùng ở trong tình yêu của Chúa và cùng yêu nhau bằng tình yêu của Chúa. Cùng một linh hồn của một tâm trí là cùng liên kết với nhau và thống nhất quyết tâm sống một đời sống trong Chúa, cho Chúa, và vì Chúa:
Sống trong Chúa là sống bởi đức tin vào sự cứu rỗi của Ngài.
Sống cho Chúa là sống để phụng sự Chúa, làm những việc lành mà Ngài đã sắm sẵn cho con dân của Ngài.
Sống vì Chúa là sống theo Lời Chúa để tôn cao danh Chúa.
Đó chính là sự nên một của con dân Chúa trong Đức Chúa Trời và trong Đấng Christ.
Giăng 10:39-40
39 Dù vậy, họ vẫn còn tìm cách để bắt Ngài; nhưng Ngài đã tránh khỏi tay của họ.
40 Kế đó, Ngài đã đi trở lại bên kia Sông Giô-đanh, đến nơi mà trước đó Giăng đã làm báp-tem. Ngài đã trú tại đó.
Sau những lời phán bảo của Đức Chúa Jesus, những người Do-thái không tin Ngài và chống nghịch Ngài đã đuối lý, không thể kết tội Ngài phạm thượng. Nhưng họ vẫn tìm cách bắt Ngài, có lẽ để giao nộp cho Tòa Công Luận xét xử.
Đức Chúa Jesus đã tránh khỏi sự bách hại của họ và ra khỏi nơi đó, đi qua bờ phía đông của Sông Giô-đanh. Có lẽ Ngài đã đến nơi Ngài từng được Giăng Báp-tít làm báp-tem cho Ngài, trước Lễ Vượt Qua năm 25. Đó là khu vực gần làng Bê-tha-ni, bên bờ đông của Sông Giô-đanh, cách Thành Giê-ru-sa-lem khoảng 45 km. Làng Bê-tha-ni này khác với làng Bê-tha-ni nơi cư trú của La-xa-rơ với Ma-ri và Ma-thê, là nơi chỉ cách Thành Giê-ru-sa-lem chừng 3 km.
Có lẽ Đức Chúa Jesus đã tạm trú tại đó khoảng ba tháng, cho tới khi gần đến Lễ Vượt Qua của năm 27.
Giăng 10:41-42
41 Có nhiều người đã đến với Ngài và nói: “Giăng đã không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người này là thật.”
42 Tại đó, nhiều người đã tin nơi Ngài.
Trong thời gian Đức Chúa Jesus tạm trú tại bờ đông của Sông Giô-đanh đã có nhiều người tìm đến để nghe Ngài giảng dạy. Cũng không ngoại trừ có nhiều người được Ngài chữa bệnh và đuổi quỷ. Chính vì được chứng kiến những phép lạ do Đức Chúa Jesus làm ra mà nhiều người đã tin Đức Chúa Jesus.
Tin Đức Chúa Jesus tức là tin mọi lời Ngài rao giảng, tin rằng, Ngài là Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời.
Câu “nhưng mọi điều Giăng đã nói về người này là thật” bao gồm lời Giăng Báp-tít đã gọi Ngài là “Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất đi tội lỗi của thế gian” (Giăng 1:29).
Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.
Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
28/12/2024
Ghi Chú
Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.
[1] https://www.chabad.org/holidays/chanukah/article_cdo/aid/102911/jewish/What-Is-Hanukkah.htm
[2] https://timhieutinlanh.com/cac-dieu-ran-cua-thien-chua/
[3] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-phi-lip-2_1-11/
Karaoke Thánh Ca: “Lòng Nguyện Theo Chúa”
https://karaokethanhca.net/long-nguyen-theo-chua/
Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.