Chú Giải Hê-bơ-rơ 02:11-18 Nhân Tính của Đấng Christ – Phần 2

2,003 views

58005 Chú Giải Hê-bơ-rơ: Nhân Tính của Đấng Christ – Phần 2
Hê-bơ-rơ 2:11-18

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/d/MV8xNzU2NTIyNDNf/58005_NhanTinhCuaDangChristPhan2_Heboro_02_11-18.mp3
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/58005-nhantinhcuadangchristphan2-heboro-02-11-18
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/mhcgl7h0k0t5f3c/58005_NhanTinhCuaDangChristPhan2_Heboro_02_11-18.mp3/file

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
Amazon Drive: https://www.amazon.com/clouddrive/share/EERPUwTASJiTF0aRyt5inO35U3LZbPYs8qE7kOvo5oU
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Hê-bơ-rơ 2:11-18

11 Vì Đấng làm nên thánh và những người được nên thánh, hết thảy đều ra bởi một Cha. Bởi lẽ đó, Ngài không hổ thẹn, gọi họ là những em cùng Cha;

12 phán rằng: Tôi sẽ truyền danh của Ngài cho những em cùng Cha của tôi. Trong giữa Hội Thánh, tôi sẽ ca hát tôn vinh Ngài. [Thi Thiên 22:22]

13 Và lại phán: Tôi sẽ trông cậy nơi Ngài. Và lại phán: Này, tôi với những con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi. [Ê-sai 8:17-18]

14 Vậy thì, vì con cái có phần về thịt và máu, thì Ngài cũng vậy, dự phần vào đó, để cho bởi sự chết Ngài phá diệt kẻ có sức mạnh của sự chết, kẻ ấy là Ma Quỷ, [viết hoa để chỉ Sa-tan,]

15 và để giải thoát họ, những người vì sợ sự chết mà suốt cuộc đời của họ đã bị cầm buộc trong sự nô lệ.

16 Vì thật Ngài không lấy hình thể của các thiên sứ, nhưng Ngài đã lấy hình thể của dòng dõi Áp-ra-ham. [Ê-sai 41:8-9]

17 Bởi đó, trong suốt mọi sự Ngài phải chịu giống như những em cùng Cha của mình, để Ngài trở nên thầy tế lễ thượng phẩm thương xót và trung tín, trước Đức Chúa Trời, chuộc những tội của dân chúng.

18 Vì trong sự ấy, chính mình Ngài khốn khổ khi bị cám dỗ hoặc bị thử thách, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị cám dỗ hoặc bị thử thách.

Trong sự cứu rỗi Đức Chúa Trời ban cho loài người, qua sự kiện Thiên Chúa Ngôi Lời tự bỏ đi thẩm quyền và năng lực của Thiên Chúa, để được sinh ra làm người trong lòng trinh nữ Ma-ri bởi Đức Chúa Trời, và được Ma-ri sinh ra trong thế gian, chịu chết thay cho loài người, có ba điều quan trọng mà chúng ta cần hiểu và ghi nhớ:

  • Ngài phải hoàn toàn là người; và phải được sinh ra dưới luật pháp của Đức Chúa Trời, nghĩa là Ngài phải hoàn toàn vâng giữ các điều răn và luật pháp, như đã chép trong Thánh Kinh.

  • Ngài phải chịu sự cám dỗ của ma quỷ và tội lỗi nhưng Ngài không phạm tội.

  • Ngài bằng lòng chết thay cho sự phạm tội của loài người.

Có đáp ứng đủ ba điều ấy thì Ngài mới có thể là Đấng Christ, hoàn thành công cuộc cứu rỗi nhân loại.

Đức Chúa Jesus phải hoàn toàn là một người để giải quyết nan đề tội lỗi do chính loài người gây ra. Bởi một người mà tội lỗi và hậu quả của tội lỗi, là sự chết, vào trong thế gian; thì cũng phải bởi một người mà tội lỗi và hậu quả của tội lỗi được cất ra khỏi thế gian:

Vì như bởi một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian và sự chết đến bởi tội lỗi, thì cũng vậy sự chết đã trải qua trên mỗi người, vì mỗi người đều đã phạm tội.” (Rô-ma 5:12).

Rô-ma 5:17-19

17 Vì nếu bởi sự lỗi lầm của một người mà sự chết đã cai trị bởi một người, thì những ai nhận sự dư dật của ân điển và sự ban cho của sự công bình, họ sẽ nhờ một Đức Chúa Jesus Christ mà cai trị trong sự sống biết bao!

18 Vậy nên, như bởi lỗi lầm của một người mà án phạt đến trên mọi người thế nào, thì bởi việc làm công bình của một người cho mọi người mà sự xưng công bình của sự sống cũng đến trên mọi người thế ấy.

19 Vì, như bởi sự không vâng phục của một người mà nhiều người thành ra những kẻ có tội, thì cũng vậy, bởi sự vâng phục của một người mà nhiều người thành ra công bình.

Tuy nhiên, nếu Đức Chúa Jesus chỉ hoàn toàn là một người thì sự cứu rỗi toàn thể nhân loại không thể hiện thực. Vì mạng sống có giới hạn của một người chỉ có thể chết thay cho một mạng sống có giới hạn. Chỉ có mạng sống của Thiên Chúa vô hạn trong thân thể xác thịt của một người mới có thể chết thay cho toàn thể loài người có giới hạn. Chính vì thế mà Đấng Cứu Rỗi nhân loại phải vừa là loài người vừa là Thiên Chúa. Một sự kiện mà chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền và năng lực để làm ra. Chúng ta cần hiểu và ghi nhớ hai điều sau đây:

  • Đức Chúa Trời có thể sinh ra một người trong lòng trinh nữ Ma-ri mà Thiên Chúa Ngôi Lời không cần phải nhập thế làm người. Nhưng nếu chỉ là một người công chính thì mạng sống của người ấy chỉ có thể chết thay cho mạng sống của một người có tội mà thôi. Chính vì Đức Chúa Jesus vừa là người, vừa là Thiên Chúa mà mạng sống của Ngài có thể thay thế cho mạng sống của toàn thể nhân loại.

  • Dù Đức Chúa Jesus vừa là người vừa là Thiên Chúa nhưng Ngài không dùng thần tính, để chống lại những sự cám dỗ và thử thách, mà Ngài hoàn toàn sống thánh khiết, vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn, bởi nhân tính mà Đức Chúa Trời đã ban cho loài người.

Chúng ta cũng cần phải hiểu và ghi nhớ rằng: Sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ là cho toàn thể nhân loại, nhưng chỉ có những ai thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, thì mới nhận được sự cứu rỗi. Họ đều được tha tội; được rửa sạch bản tính tội; và được dựng nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17). Họ trở thành những người được nên thánh, tức là những người được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.

Họ được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời để làm những con trai và những con gái của Ngài; để thừa hưởng cơ nghiệp đời đời của Ngài, là Vương Quốc Trời. Nhưng tiếp theo đó, họ có ở lại trong sự cứu rỗi hay không là quyền tự do lựa chọn của họ. Nếu họ chọn ở lại trong sự cứu rỗi thì họ sẽ không quay lại sống trong tội lỗi; nhưng họ sẽ hết lòng sống theo Lời Chúa, vâng giữ các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa. Nếu họ chọn quay về sống trong tội lỗi, tìm kiếm cơ hội để phạm tội, thì họ sẽ bị Đức Chúa Jesus Christ mửa ra khỏi Hội Thánh và chính Đức Chúa Trời sẽ chặt bỏ họ ra khỏi Đấng Christ (Khải Huyền 3:16; Giăng 15:2).

Mối tương quan giữa những người tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời với Đức Chúa Trời là mối quan hệ cha con, vì họ được Đức Chúa Trời sinh ra thành những con người mới. Họ là những con trai và những con gái của Ngài.

Mối tương quan giữa những người tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời với Đức Chúa Jesus Christ bao gồm bảy phương diện:

  • Anh em cùng Cha: Vì họ cùng được sinh ra bởi Đức Chúa Trời như Đức Chúa Jesus đã được sinh ra bởi Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:29; Hê-bơ-rơ 2:11-12).

  • Thầy trò: Vì Ngài dạy dỗ họ những lẽ thật về Thiên Chúa và sự cứu rỗi (Giăng 13:13).

  • Chủ tớ: Vì họ phụng sự Ngài (Cô-lô-se 3:24).

  • Bạn bè: Vì Ngài chọn nâng họ lên địa vị làm bạn với Ngài (Giăng 15:15).

  • Thiên Chúa và loài người: Vì Ngài là Đấng dựng nên họ và cứu chuộc họ (Giăng 20:28).

  • Vua tôi: Vì Ngài là Vua của Các Vua và Chúa của các Chúa (I Ti-mô-thê 6:15; Khải Huyền 19:16).

  • Vợ chồng: Vì Ngài và họ sẽ kết hiệp cách nhiệm mầu trong Lễ Cưới của Chiên Con (Khải Huyền 19:7-9).

Hê-bơ-rơ 2:11-18 đặc biệt nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Chúa Jesus Christ về phương diện Ngài là anh cùng Cha với con dân Chúa; và kể ra những điều Ngài đã làm ra cho con dân Chúa, trong địa vị của một người anh cả.

11 Vì Đấng làm nên thánh và những người được nên thánh, hết thảy đều ra bởi một Cha. Bởi lẽ đó, Ngài không hổ thẹn, gọi họ là những em cùng Cha;

Đấng làm nên thánh: Là Đức Chúa Jesus Christ.

Những người được làm nên thánh: Là bất cứ ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đấng Christ.

Được nên thánh: Là được tha tội; được làm cho sạch bản tính tội; được dựng nên mới giống như Thiên Chúa trong sự công bình và sự thánh sạch chân thật, với tri thức được đổi mới (Ê-phê-sô 4:24; Cô-lô-se 3:10); để dành riêng cho Đức Chúa Trời sử dụng theo ý muốn của Ngài.

Hết thảy đều ra bởi một Cha: Thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus và của những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đều được Đức Chúa Trời sinh ra. Vì thế, về phần thuộc thể, Đức Chúa Jesus và họ là con của cùng một Cha. Hiện nay, những người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chỉ mới được tái sinh phần tâm thần bởi Đức Thánh Linh (Giăng 3:6), và linh hồn bởi Đức Chúa Jesus Christ (Giăng 5:21, 25), nhưng thân thể xác thịt thì chưa được tái sinh hoặc chưa được sinh ra mới bởi Đức Chúa Trời. Phần thân thể xác thịt của họ sẽ được Đức Chúa Trời sinh ra mới qua sự phục sinh thân thể xác thịt đã chết hay biến hóa thân thể xác thịt đang sống, trong ngày Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian (Rô-ma 8:11; I Cô-rinh-tô 6:14; II Cô-rinh-tô 4:14; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:14).

Chúng ta cần phân biệt sự sống lại của linh hồn trong Giăng 5:21, 25 với sự sống lại của xác thịt trong Giăng 5:28-29. Sự tái sinh của linh hồn được thực hiện bởi Đức Chúa Jesus Christ, của tâm thần được thực hiện bởi Đức Thánh Linh, ngay khi chúng ta thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài. Sự tái sinh của thân thể xác thịt sẽ có nhiều trường hợp khác nhau vào các thời điểm khác nhau:

  • Trường hợp của Hội Thánh do Đức Chúa Trời thực hiện qua Đức Chúa Jesus Christ trong ngày Đức Chúa Jesus Christ đến, để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, vào ngày cuối cùng của lịch sử Hội Thánh trong thế gian (I Cô-rinh-tô 15:52; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16).

  • Trường hợp của hai chứng nhân vào giữa Kỳ Tận Thế (Khải Huyền 11:11).

  • Trường hợp của những người chịu chết vì danh Chúa trong Kỳ Tận Thế (Khải Huyền 20:4).

  • Trường hợp của các thánh đồ thời trước Cựu Ước và thời Cựu Ước. Có thể họ sẽ được sống lại cùng thời điểm với các thánh đồ trong Kỳ Tận Thế.

  • Trường hợp của tất cả những người không thuộc về Chúa được gọi sống lại, để chịu phán xét về mỗi tội lỗi họ đã làm ra trong thân thể xác thịt (Khải Huyền 20:11-15).

Ngài không hổ thẹn gọi họ những em cùng Cha: Trước khi Đấng Christ chịu chết trên thập tự giá để hoàn thành công cuộc cứu rỗi nhân loại, thì Ngài đã từng gọi những ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời đã phán thành lời, là các em trai và em gái cùng Cha của Ngài (Ma-thi-ơ 12:50; Mác 3:35; Lu-ca 8:21).

Danh từ “a-đeo-phót” [1] có nghĩa hẹp là: Anh hay em trai cùng cha, hoặc cùng mẹ, hoặc cùng cả cha lẫn mẹ; nghĩa rộng là: Anh chị em cùng cha, hoặc cùng mẹ, hoặc cùng cả cha lẫn mẹ; nghĩa bóng là: Anh chị em trong Hội Thánh, với ý nghĩa mọi người cùng được sinh ra bởi một Cha là Đức Chúa Trời.

Trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012 và Bản Dịch Ngôi Lời, khi danh từ này được dùng để gọi con dân Chúa trong Hội Thánh thì được dịch là “anh chị em cùng Cha”. Riêng trong Hê-bơ-rơ 2:11-12, 17 được dịch là “những em cùng Cha”; vì không ai trong con dân Chúa là anh hoặc chị của Đấng Christ. Tất cả đều là em của Ngài, vì Ngài là con đầu lòng do Đức Chúa Trời sinh ra (Rô-ma 8:29; Hê-bơ-rơ 1:6).

12 phán rằng: Tôi sẽ truyền danh của Ngài cho những em cùng Cha của tôi. Trong giữa Hội Thánh, tôi sẽ ca hát tôn vinh Ngài. [Thi Thiên 22:22]

Thi Thiên 22 là một bài ca do Vua Đa-vít làm ra và câu mở đầu của bài ca này cũng là lời đã được Đức Chúa Jesus Christ kêu lên, khi Ngài sắp trút hơi thở cuối cùng trên thập tự giá (Ma-thi-ơ 27:46). Hê-bơ-rơ 2:12 trích dẫn câu 22 của Thi Thiên 22 làm lời phán của Đức Chúa Jesus Christ. Điều này giúp cho chúng ta hiểu, Thi Thiên 22 cũng là một lời tiên tri về sự thương khó của Đấng Christ.

Tôi sẽ truyền danh của Ngài cho các em cùng Cha của tôi: Động từ “truyền” được dùng trong câu này, trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: Công bố; công khai nói rõ cho mọi người biết. Đây là lời Đấng Christ hứa với Đức Chúa Trời và Ngài đã hoàn thành, như chính Ngài đã xác nhận:

Con đã tỏ danh Ngài ra cho những người mà Ngài đã giao cho con từ thế gian. Họ vẫn thuộc về Ngài và Ngài đã giao họ cho con. Họ đã giữ Lời của Ngài.” (Giăng 17:6).

Trong giữa Hội Thánh, tôi sẽ ca hát tôn vinh Ngài: Mặc dù Đức Chúa Jesus Christ từng hát tôn vinh Đức Chúa Trời với các môn đồ của Ngài (Ma-thi-ơ 26:30; Mác 14:26), nhưng khi đó, Hội Thánh chưa được thành lập. Vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng, lời hứa này của Đấng Christ sẽ được hoàn thành khi Hội Thánh cùng nhóm hiệp với Ngài trên thiên đàng. Đó là giây phút Hội Thánh và Đấng đứng đầu Hội Thánh, là Đức Chúa Jesus Christ, sẽ cùng nhau ca hát tôn vinh Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi mà Ngài đã ban cho nhân loại.

13 Và lại phán: Tôi sẽ trông cậy nơi Ngài. Và lại phán: Này, tôi với những con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi. [Ê-sai 8:17-18]

Hê-bơ-rơ 2:13 là lời trích từ Ê-sai 8:17-18, dùng câu nói của Tiên Tri Ê-sai làm câu nói của Đấng Christ, để nói lên sự kiện Đấng Christ hoàn toàn là một người, nhận lãnh chức vụ từ Đức Chúa Trời. Trong thân vị loài người, Đấng Christ hết lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời và làm tròn bổn phận trong chức vụ được Đức Chúa Trời giao phó. Đó là các chức vụ: tiên tri, thầy tế lễ, và vua. Lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời là trông cậy Đức Chúa Trời sẽ làm thành mọi chương trình và ý định của Đức Chúa Trời.

Những con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi: Là những người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, được gọi là những con trai và những con gái của Đức Chúa Trời (II Cô-rinh-tô 6:18). Họ được Đức Chúa Trời sinh ra (I Giăng 5:1) nên họ là những em cùng Cha với Đấng Christ. Đức Chúa Trời đã ban cho Đức Chúa Jesus Christ tất cả những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong thời kỳ Hội Thánh, để họ được kết hiệp cách nhiệm mầu với Đấng Christ và cùng Ngài cai trị cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời.

Hết thảy những ai Cha ban cho Ta sẽ đến với Ta. Người nào đến với Ta, Ta sẽ không đuổi ra ngoài.” (Giăng 6:37).

Đức Chúa Jesus Christ sẽ không đuổi ra ngoài bất cứ ai thật lòng đến với Ngài, để sống một đời sống mới thánh khiết, bình an, dư dật, và thỏa lòng trong Ngài. Nhưng Ngài sẽ mửa những ai không hết lòng khi họ đến với Ngài, như Ngài đã cảnh báo trong Khải Huyền 3:16.

14 Vậy thì, vì con cái có phần về thịt và máu, thì Ngài cũng vậy, dự phần vào đó, để cho bởi sự chết Ngài phá diệt kẻ có sức mạnh của sự chết, kẻ ấy là Ma Quỷ, [viết hoa để chỉ Sa-tan,]

Con cái có phần về thịt và máu: Có nghĩa là, con cái của loài người được sinh ra với hình thể thịt và máu, sau đó, bởi đức tin được trở nên con cái của Đức Chúa Trời thì vẫn có hình thể thịt và máu.

Thì Ngài cũng vậy, dự phần vào đó: Có nghĩa là Thiên Chúa Ngôi Lời cũng dự phần vào việc mang hình thể thịt và máu của loài người. Có trở nên loài người thì Ngài mới có thể chết thay cho loài người.

Bởi sự chết Ngài phá diệt kẻ có sức mạnh của sự chết: Kẻ có sức mạnh của sự chết là Sa-tan, vì Sa-tan cám dỗ loài người phạm tội, dẫn đến sự loài người bị chết. Có sức mạnh của sự chết có nghĩa là có thể đem sự chết đến cho loài người. Kẻ giết người là kẻ có sức mạnh của sự chết và Đức Chúa Jesus đã gọi Sa-tan là kẻ giết người từ lúc ban đầu (Giăng 8:44). Đức Chúa Jesus Christ phá diệt Sa-tan, có nghĩa là Ngài khiến cho Sa-tan không còn có thể đem sự chết đến với những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Động từ “phá diệt” dùng trong Hê-bơ-rơ 2:14, trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: Làm cho trở nên không còn hoạt động được nữa; làm cho thất nghiệp; cất đi sức mạnh, ảnh hưởng, quyền lực.

Đức Chúa Jesus Christ phá diệt Sa-tan bằng sự Ngài chết thay cho loài người và sống lại từ trong sự chết. Sự sống lại của Ngài khiến cho sự chết không còn quyền trên Ngài và Ngài có quyền khiến cho những người chết được sống lại, khiến cho thân thể của họ ra khỏi mồ mả, linh hồn của họ ra khỏi âm phủ:

là Đấng Sống, Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ.” (Khải Huyền 1:18).

Sự chết được nói đến ở đây vừa là sự chết thuộc thể khi linh hồn và tâm thần bị phân rẽ khỏi thân thể xác thịt; vừa là sự chết thuộc linh khi tâm thần trở về cùng Đức Chúa Trời còn linh hồn và thể xác bị đời đời phân rẽ khỏi Thiên Chúa. Sự chết thuộc thể lẫn thuộc linh đều là hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là không vâng phục Thiên Chúa, là vi phạm các điều răn của Thiên Chúa.

Đức Chúa Jesus là một người vô tội, chịu chết thay cho toàn thể loài người tội lỗi, nên Đức Chúa Trời đã khiến cho thân thể xác thịt của Ngài được sống lại. Chính vì thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus được sống lại mà Ngài cầm quyền trên sự chết.

Chúng ta nhìn thấy sự công chính trong sự Đức Chúa Trời cứu rỗi loài người:

  • Đức Chúa Jesus Christ là một người vô tội, chịu chết thay cho những người có tội, khiến cho tội lỗi bị hình phạt trên thân thể xác thịt. Đó là điều công bình.

  • Mạng sống của Đức Chúa Jesus Christ không chỉ là mạng sống của một người mà còn là mạng sống của Thiên Chúa nên Ngài có thể chết thay cho toàn thể loài người. Đó là điều công bình.

  • Vì Đức Chúa Jesus Christ vô tội nên Đức Chúa Trời đã ban cho thân thể xác thịt của Ngài sự sống lại và phục hồi sự thông công của Ngài với Đức Chúa Trời (đã tạm thời bị gián đoạn khi Ngài gánh thay hình phạt cho loài người trên thập tự giá – Ma-thi-ơ 27:46; Mác 15:34). Đó là điều công bình.

Danh từ “ma quỷ” được dùng trong Hê-bơ-rơ 2:14 là danh từ số ít, có mạo từ xác định đứng trước, được dùng để chỉ về Sa-tan, nên được viết hoa, để giúp cho người đọc hiểu là danh từ này được dùng cho Sa-tan, thay vì viết thường như khi dùng gọi chung các thiên sứ phạm tội.

15 và để giải thoát họ, những người vì sợ sự chết mà suốt cuộc đời của họ đã bị cầm buộc trong sự nô lệ.

Chính vì Đức Chúa Jesus Christ đã phá diệt Sa-tan, cầm quyền trên sự chết, mà Ngài có thể giải thoát những người đang bị nô lệ cho sự sợ chết, khiến họ không còn sợ hãi sự chết. Nô lệ cho sự sợ chết là sẵn lòng làm bất cứ điều gì để có thể không bị chết, kể cả khi phải giết chết người khác. Lòng sợ hãi sự chết phát xuất từ một hay nhiều lý do sau đây:

  • Ham thích cuộc sống hiện tại.

  • Không muốn xa lìa những người thân yêu.

  • Nhìn thấy tác động của sự chết trên thân thể xác thịt.

  • Không biết rõ sau sự chết là gì.

  • Ý thức rằng, có một cái giá phải trả cho những sự tội lỗi đã làm ra trong khi thân thể xác thịt còn sống.

Đành rằng cũng có những người không sợ chết, đến nỗi, họ tự giết chính mình. Nhưng đó là trường hợp khi sự đau đớn hoặc thất vọng quá lớn đối với họ, khiến họ trở thành sợ sống hơn là sợ chết.

Sự sợ chết được nói đến trong Hê-bơ-rơ 2:15 đối với dân I-sơ-ra-ên còn có nghĩa là sự sợ chết theo như án phạt của luật pháp của Đức Chúa Trời đối với những ai vi phạm các điều răn của Ngài.

Đức Chúa Jesus Christ có thể giải thoát những ai tin nhận sự cứu rỗi của Ngài ra khỏi ách nô lệ của sự sợ chết vì:

  • Ngài đã gánh thay hình phạt của tội lỗi cho họ.

  • Ngài đã phá diệt Sa-tan và Ngài đã cầm quyền trên sự chết.

  • Ngài có quyền ban sự sống và sự sống lại cho những ai tin nhận Ngài:

Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin nơi Ta dù người ấy đã chết thì cũng sẽ sống.” (Giăng 11:25).

Những người thật sự có đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ sẽ không còn sợ sự chết, vì Đức Thánh Linh đã khiến họ hiểu và tin rằng, sự chết không còn là án phạt đối với họ và cũng không còn quyền trên họ. Sự chết chỉ là phương tiện để đưa họ ra khỏi cuộc đời này, vào trong thiên đàng, được mãi mãi hạnh phúc bên Chúa:

Tôi nghe một tiếng từ trời phán với tôi: Hãy viết! Từ nay, phước cho những người chết là những người chết trong Chúa! Đấng Thần Linh phán: Phải, vì họ nghỉ ngơi khỏi sự lao động của họ, và những việc làm của họ theo với họ.” (Khải Huyền 14:13).

Trong câu chuyện Chấp Sự Ê-tiên vì giảng Tin Lành mà bị dân I-sơ-ra-ên ném đá, chúng ta thấy, trước khi chết, Ê-tiên đã nhìn thấy các tầng trời mở ra, và thấy Đấng Christ đứng trên thiên đàng để chờ đón ông (Công Vụ Các Sứ Đồ 7:55-56). Vì thế, đối với con dân chân thật của Chúa, cho dù có phải đi qua sự chết thì đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, trước khi họ bước vào trong cõi đời đời với Chúa:

Chúng ta biết rằng, mình đã vượt khỏi sự chết vào trong sự sống, vì chúng ta yêu các anh chị em cùng Cha của mình. Còn ai chẳng yêu các anh chị em cùng Cha của mình thì ở lại trong sự chết.” (I Giăng 3:14).

Người thật sự tin Chúa và sống theo Lời Chúa thì hoàn toàn không còn sợ chết. Họ đã được Đức Chúa Jesus Christ giải thoát ra khỏi sự sợ hãi ấy. Ai còn sợ chết thì người ấy chưa thật sự tin Chúa.

16 Vì thật Ngài không lấy hình thể của các thiên sứ, nhưng Ngài đã lấy hình thể của dòng dõi Áp-ra-ham. [Ê-sai 41:8-9]

Hình thể của các thiên sứ: Các thiên sứ là những thần linh do Thiên Chúa tạo nên. Họ có thân thể thiêng liêng nhưng không có thân thể vật chất là thịt và máu như chúng ta. Khi họ hiện ra với loài người, họ phải hiện ra trong hình dạng của loài người, để chúng ta có thể nhìn thấy họ. Nhưng thân thể ấy cũng không phải là thịt và máu, vì không được sinh ra bởi loài người, mà chỉ là sự kết hiệp các nguyên tố vật chất bằng phép lạ để tạo nên một hình thể giống như thân thể xác thịt của chúng ta. Công nghệ chế tạo rô-bốt ngày nay giúp cho chúng ta có thể hiểu, thế nào là có hình thể giống như loài người nhưng không phải là loài người.

Nếu Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế nhưng mang lấy hình thể của thiên sứ thì loài người không thể nhìn thấy Ngài bằng con mắt xác thịt. Và nếu Ngài mang hình thể của thiên sứ thì Ngài không bị kể là thấp kém hơn các thiên sứ. Điều quan trọng là thiên sứ không thể chết thay cho loài người. Vì tội lỗi của loài người được làm ra bởi thân thể xác thịt của loài người, nên sự hình phạt của tội lỗi phải giáng xuống trên thân thể xác thịt của loài người.

Hình thể của dòng dõi Áp-ra-ham: Có nghĩa là hình thể của con cháu Áp-ra-ham theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Con cháu của Áp-ra-ham theo nghĩa đen là một người I-sơ-ra-ên; theo nghĩa bóng là người thuộc bất cứ dân tộc nào, nhưng có đức tin trọn vẹn trong Đức Chúa Trời giống như Áp-ra-ham. Điều chắc chắn là hình thể của dòng dõi Áp-ra-ham là hình thể của loài người, được sinh ra bởi loài người.

Đức Chúa Jesus được Đức Chúa Trời sinh ra làm người trong lòng trinh nữ Ma-ri; và Ngài đã được Ma-ri sinh ra trong thế gian theo dòng dõi của Áp-ra-ham, thuộc chi phái Giu-đa. Lẽ thật này phản bác tà giáo có từ thế kỷ thứ nhất, cho rằng, Đức Chúa Jesus không thật sự được sinh ra trong thân thể xác thịt của loài người, mà Ngài chỉ hiện ra trong hình ảnh của loài người, theo cách các thiên sứ thường làm, khi họ hiện ra, tiếp xúc với loài người. Sứ Đồ Giăng cũng đã lên án tà giáo này trong I Giăng 4:1-3.

17 Bởi đó, trong suốt mọi sự Ngài phải chịu giống như những em cùng Cha của mình, để Ngài trở nên thầy tế lễ thượng phẩm thương xót và trung tín, trước Đức Chúa Trời, chuộc những tội của dân chúng.

Trong suốt mọi sự: Có nghĩa là trong suốt mọi sự xảy ra trong cuộc sống của Đức Chúa Jesus, trong khi Ngài mang thân thể xác thịt loài người. Ngài hoàn toàn chịu mọi sự giới hạn của thân thể xác thịt loài người như bất cứ một người nào. Ngài chịu mọi thử thách và cám dỗ như bất cứ một người nào. Ngài chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu bị sỉ nhục, chịu bị thương tích, và cuối cùng, chịu chết.

Trong khoảng thời gian Ngài chịu bị đóng đinh trên thập tự giá cho đến chết, thì Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm dâng của lễ chuộc tội cho toàn thể nhân loại lên Đức Chúa Trời, mà Ngài chính là của lễ chuộc tội ấy. Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm có lòng thương xót vì Ngài yêu loài người tội lỗi và sẵn sàng chịu nhục, chịu khổ, chịu chết, để cứu họ. Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm trung tín vì Ngài đã làm tròn bổn phận trong chức vụ của Ngài, bất chấp phải trả giá bằng chính danh dự và mạng sống của Ngài.

18 Vì trong sự ấy, chính mình Ngài khốn khổ khi bị cám dỗ hoặc bị thử thách, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị cám dỗ hoặc bị thử thách.

Trong sự ấy: Trong sự Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người, để đem sự cứu rỗi đến cho nhân loại.

Bị cám dỗ hoặc bị thử thách: Động từ bị cám dỗ hoặc thử thách là một động từ cùng lúc mang hai nghĩa:

  • Bị thử thách để tỏ ra phẩm chất thật. Như vàng bị đốt chảy ra trong lửa, để tỏ ra đó là vàng ròng, không có tạp chất. Như khi Đức Chúa Trời thử thách đức tin của Áp-ra-ham bằng cách bảo ông phải dâng đứa con một mà Ngài đã ban cho ông với Sa-ra, làm của lễ thiêu. Như khi Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan hãm hại Gióp. Như khi Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan qua con rắn cám dỗ Ê-va.

  • Bị cám dỗ là bị xúi giục phạm các điều răn của Chúa để thỏa mãn ý riêng. Như Sa-tan cám dỗ Ê-va làm nghịch lại điều răn của Chúa. Như Sa-tan hãm hại Gióp để sau đó dùng môi miệng của vợ ông, xúi giục ông nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi tự tử. Như Sa-tan cám dỗ Đức Chúa Jesus phạm vào các tội: ích kỷ; kiêu ngạo; tham lam.

Vì bất cứ điều gì xảy đến cho chúng ta cũng bởi sự cho phép của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 10:29), cho nên, mỗi một sự cám dỗ dù đến bởi sự tham muốn bất chính của chúng ta (Gia-cơ 1:14) hay đến bởi sự gài bẫy của Sa-tan, thì cũng đều là sự thử thách đến từ Đức Chúa Trời. Khi chúng ta đối diện với cám dỗ, chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta cơ hội để tỏ ra phẩm chất yêu kính Chúa, vâng phục Chúa của chúng ta, trước Chúa, trước các thiên sứ, trước các ma quỷ, và trước những người khác. Rồi chúng ta công bố Lời Chúa để chiến thắng sự cám dỗ.

Đức Chúa Jesus Christ đã sống đời sống của một người như chúng ta và Ngài đã trải qua những cám dỗ, những thử thách trong hơn ba mươi năm giữa thế gian tội lỗi. Ngài đã chịu những thử thách và cám dỗ nặng nề hơn nhiều người trong chúng ta; và Ngài luôn đắc thắng với bản tính thánh thiện ban đầu của loài người, là bản tính đã được Đức Chúa Trời ban cho chúng ta.

Trong mỗi một sự thử thách và cám dỗ chúng ta đều phải chịu khốn khổ, để giữ mình không phạm tội. Điều chắc chắn là: Không một sự cám dỗ hay thử thách nào quá sức chịu đựng của chúng ta. Và Đức Chúa Trời luôn mở đường cho chúng ta ra khỏi:

Không có sự cám dỗ hoặc thử thách nào đã nắm giữ được các anh chị em, ngoại trừ nếu sự ấy thuộc về bản tính của loài người [2]. Nhưng Đức Chúa Trời thành tín, là Đấng sẽ không để cho các anh chị em chịu cám dỗ hoặc thử thách nào vượt quá năng lực của các anh chị em; nhưng Ngài sẽ làm cho cùng với sự cám dỗ hoặc thử thách có một lối thoát, để các anh chị em có năng lực chịu đựng.” (I Cô-rinh-tô 10:13).

Ngài có thể cứu giúp những ai bị cám dỗ hoặc bị thử thách: Động từ “cứu giúp” trong câu này, trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: Giải cứu và tiếp trợ ai đó khi người ấy ở trong nghịch cảnh.

Trong khi chúng ta chịu sự khốn khổ của nghịch cảnh, dù là cám dỗ hay thử thách, thì Đức Chúa Jesus Christ là Đấng cứu giúp và tiếp trợ chúng ta, để làm giảm đi sự khốn khổ và dẫn chúng ta vào trong lối thoát. Vì chính Ngài mời gọi chúng ta mang ách của Ngài nên Ngài mang chung ách với chúng ta, để làm thành mọi ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của chúng ta.

Tất cả những sự thử thách đến từ Đức Chúa Trời hoặc những sự cám dỗ đến từ ma quỷ đều không thể nắm giữ được chúng ta, ngoại trừ sự cám dỗ đến từ trong chính tấm lòng có những sự ham muốn bất chính của chúng ta.

Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi bị dẫn dụ sai lạc bởi sự tham muốn của chính mình. Kế đó, sự tham muốn thành hình và kết quả tội lỗi. Khi tội lỗi đã trọn thì sinh ra sự chết.” (Gia-cơ 1:14-15).

Đó là điều đã xảy ra cho Ê-va. Chính vì thế mà Lời Chúa đã khuyên dạy chúng ta phải hết sức cẩn thận canh giữ tấm lòng của mình:

Hãy hết sức cẩn thận canh giữ tấm lòng của con, vì những sự tuôn trào của sự sống ra từ nó.” (Châm Ngôn 4:23).

Nói cho cùng, quyết định thuộc về mỗi một chúng ta. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta quyền tự do trong sự lựa chọn để vâng phục Ngài, ưa thích và tôn kính các điều răn của Ngài; hoặc chiều theo ý riêng mà chống nghịch Ngài, vi phạm các điều răn của Ngài.

Khi chúng ta chọn chịu khổ để vâng giữ các điều răn và luật pháp của Chúa, thì chính Đức Chúa Jesus Christ là Đấng ban thêm sức cho chúng ta và cùng chịu khổ với chúng ta; rồi Ngài sẽ dẫn chúng ta vào trong lối thoát mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho chúng ta, trong từng nghịch cảnh. Cho dù có khi, lối thoát đó là sự chết tạm thời của thân thể xác thịt hiện tại.

Kính thưa Hội Thánh,

Qua Hê-bơ-rơ 2:11-18 chúng ta học biết rằng, Đức Chúa Jesus Christ, trong thân vị loài người và trong địa vị người anh cả cùng Cha của chúng ta:

  • Ngài đã làm cho chúng ta được nên thánh, bởi sự đổ máu của Ngài trên thập tự giá, để rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta.

  • Ngài đã gọi chúng ta là những em cùng Cha của Ngài.

  • Ngài đã làm gương cho chúng ta về lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời.

  • Ngài đã rao truyền danh của Đức Chúa Trời cho chúng ta.

  • Ngài đã giải cứu chúng ta ra khỏi ách nô lệ của sự sợ chết.

  • Ngài đang là thầy tế lễ thượng phẩm đầy lòng thương xót và trung tín cầu thay cho chúng ta trước Đức Chúa Trời.

  • Ngài có thể cứu giúp chúng ta khi chúng ta đối diện với những sự thử thách và cám dỗ.

  • Ngài sẽ cùng chúng ta hát tôn vinh Đức Chúa Trời, khi chúng ta được nhóm hiệp với Ngài trên thiên đàng.

Ngoài ra, lời tiên tri trong Khải Huyền cũng cho chúng ta biết, còn hai điều sẽ xảy ra trong tương lai:

  • Ngài sẽ hiệp một với chúng ta cách nhiệm mầu trong Lễ Cưới của Chiên Con.

  • Ngài sẽ cùng chúng ta đồng trị Vương Quốc của Đức Chúa Trời.

Nguyện rằng, những lẽ thật về Đức Chúa Jesus Christ được bày tỏ bởi Thánh Kinh sẽ an ủi chúng ta, khích lệ chúng ta, và làm vững bền hy vọng của chúng ta; tạo thành sức mạnh để giúp chúng ta sống thánh khiết, đẹp lòng Chúa, sẵn sàng cho ngày Chúa đến, để đem chúng ta vào thiên đàng. Ngày đó đã gần lắm rồi, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, ngay trong thời đại của chúng ta.

Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Thiên Chúa bao phủ mỗi một chúng ta, thêm lên cho chúng ta sự hiểu biết Lời Chúa, và thêm lên cho chúng ta năng lực cùng niềm vui trong sự sống Lời Chúa. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
26/01/2019

Ghi Chú

[1] http://threesixteenfamily.com/greek/g0080/

[2] https://threesixteenfamily.com/greek/g0442/

Karaoke Thánh Ca: “Sống Trong Lời Cha”
https://karaokethanhca.net/song-trong-loi-cha/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.