Chú Giải Hê-bơ-rơ 08:01-13 Đền Thờ Trên Trời – Giao Ước Mới Tốt Hơn Giao Ước Cũ

2,694 views


Nguồn: https://youtu.be/HfHvm5hxjL4

Chú Giải Hê-bơ-rơ 8:1-13
Đền Thờ Trên Trời
Giao Ước Mới Tốt Hơn Giao Ước Cũ

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

Hê-bơ-rơ 8:1-13

1 Sự tóm lược những điều được chúng tôi nói là: Chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm, Đấng ngự bên phải ngai của Đấng Tôn Nghiêm trong các tầng trời,

2 người phụng sự của nơi thánh và Đền Tạm thật, mà Chúa đã dựng nên, chứ không phải loài người.

3 Vì mỗi thầy tế lễ thượng phẩm đã được lập nên để dâng những lễ vật lẫn những sinh tế. Vậy nên, Đấng ấy cũng cần có vật gì để dâng.

4 Vì nếu Ngài thật vẫn ở trên đất, thì Ngài chẳng phải là thầy tế lễ; vì hiện có những thầy tế lễ đang dâng những lễ vật theo luật pháp.

5 Những người ấy phụng sự theo kiểu mẫu và hình bóng của những sự thuộc về trời, như Môi-se đã được phán truyền bởi Đức Chúa Trời khi ông sắp thực hiện Đền Tạm. Ngài phán: Hãy cẩn thận! Ngươi hãy làm mọi việc theo kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi. [Xuất Ê-díp-tô Ký 25:40]

6 Nhưng giờ đây, Ngài đã được một chức vụ cao trọng hơn nhiều. Ngài cũng là Đấng Trung Bảo của một giao ước tốt hơn, là sự được phê chuẩn bởi luật pháp trên những lời hứa tốt hơn.

7 Vì nếu giao ước thứ nhất ấy không thiếu gì, thì chẳng có chỗ được yêu cầu cho giao ước thứ nhì.

8 Vì có thiếu sót nên Ngài phán với họ: Chúa phán, kìa, những ngày đến, khi Ta sẽ làm thành một giao ước mới với nhà I-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa;

9 không theo giao ước mà Ta đã lập với những tổ phụ của chúng nó, trong ngày Ta nắm tay họ, dẫn họ ra khỏi đất Ê-díp-tô. Vì họ không cứ ở lại trong giao ước của Ta, nên Ta đã không quan tâm họ, Chúa phán.

10 Ấy là giao ước mà Ta sẽ lập với nhà I-sơ-ra-ên sau những ngày đó, Chúa phán, ban cho những luật pháp của Ta vào trong trí của họ và ghi chúng lên trên những tấm lòng của họ. Ta sẽ là Thiên Chúa đối với họ và họ sẽ là dân chúng đối với Ta.

11 Họ sẽ chẳng có ai dạy bảo người lân cận của mình và anh chị em của mình, rằng: Hãy nhận biết Chúa! Vì hết thảy sẽ biết Ta, từ người rất nhỏ cho đến người rất lớn.

12 Vì Ta sẽ có lòng khoan dung cho sự không công chính của họ. Ta sẽ không nhớ đến những tội lỗi của họ và những sự gian ác của họ. [Giê-rê-mi 31:31-34]

13 Trong sự gọi là mới, Ngài đã làm cho giao ước thứ nhất thành ra cũ và lỗi thời, gần biến mất.

Trong bài này chúng ta sẽ cùng nhau học về hai sự kiện: Thứ nhất là ở trên thiên đàng có một Đền Tạm mà Đền Tạm trên đất đã được Môi-se dựng nên theo kiểu mẫu của nó. Thứ nhì là giao ước mới tốt hơn giao ước cũ.

1 Sự tóm lược những điều được chúng tôi nói là: Chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm, Đấng ngự bên phải ngai của Đấng Tôn Nghiêm trong các tầng trời,

2 người phụng sự của nơi thánh và Đền Tạm thật, mà Chúa đã dựng nên, chứ không phải loài người.

Sau khi giảng giải về chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm trọn vẹn và đời đời của Đức Chúa Jesus Christ trong đoạn 7, Phao-lô tóm lược lại ý chính của đoạn 7 trong Hê-bơ-rơ 8:1-2. Đại danh từ “chúng ta” bao gồm người viết thư là Phao-lô cùng những môn đồ của Đấng Christ trong vòng người I-sơ-ra-ên, nhưng nghĩa rộng là tất cả những ai đã tin nhận Tin Lành.

“Chúng ta” bao gồm người I-sơ-ra-ên lẫn người thuộc các dân tộc khác. Chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm, dù từ năm 70 đến nay, trên đất này không có một đền thờ Thiên Chúa do tay người dựng nên. Thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta khi còn ở trên đất đã không phụng sự Đức Chúa Trời trong đền thờ do tay người dựng nên, mà Ngài phụng sự Đức Chúa Trời trong chính thân thể của Ngài, là đền thờ do chính Đức Chúa Trời dựng nên. Thánh Kinh chép:

“Đức Chúa Jesus đáp lời và phán với họ: Hãy phá hủy đền thờ nầy đi! Trong ba ngày, Ta sẽ dựng nó lại! Vậy nên, những người Do-thái nói: Đền thờ nầy được xây cất trong bốn mươi sáu năm mà Ngài sẽ dựng nó trong ba ngày? Nhưng Ngài nói về đền thờ của thân thể Ngài.” (Giăng 2:19-21).

Thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus Christ vừa là Đền Thờ Thiên Chúa, vừa là thầy tế lễ thượng phẩm, vừa là sinh tế được dâng lên Đức Chúa Trời làm của lễ chuộc tội cho loài người. Bởi đó mà thân thể xác thịt của mỗi một con dân Chúa cũng trở thành Đền Thờ Thiên Chúa, có Thiên Chúa trong thân vị Đức Thánh Linh ngự vào:

“Các anh chị em chẳng biết rằng, các anh chị em là đền thờ của Thiên Chúa, và Đấng Thần Linh của Đức Chúa Trời ở trong các anh chị em sao?” (I Cô-rinh-tô 3:16).

“Các anh chị em chẳng biết rằng, thân thể của các anh chị em là đền thờ của Đức Thánh Linh, Đấng đang ngự trong các anh chị em, là Đấng mà các anh chị em đã có từ Thiên Chúa; và các anh chị em chẳng phải thuộc về chính mình sao?” (I Cô-rinh-tô 6:19).

Mỗi con dân Chúa cũng trở thành một thầy tế lễ dâng chính thân thể mình làm của lễ sống và thánh lên Đức Chúa Trời:

“Nhưng các anh chị em là dòng dõi được lựa chọn, là chức thầy tế lễ của nhà vua, là dân tộc thánh, là dân thuộc về Ngài, để cho các anh chị em rao giảng sự trọn lành của Đấng đã gọi các anh chị em ra khỏi sự tối tăm, vào trong sự sáng láng lạ lùng của Ngài. [Xuất Ê-díp-tô Ký 19:5-6; Ê-sai 43:20-21; 61:6]” (I Phi-e-rơ 2:9).

“…Đức Chúa Jesus Christ, Chứng Nhân Thành Tín, con đầu lòng từ những kẻ chết, Đấng cầm quyền của các vua trên đất, Đấng yêu chúng ta và đã rửa sạch chúng ta khỏi những tội lỗi của chúng ta trong máu của Ngài, đã lập chúng ta làm những vua và những thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời và Cha của Ngài…” (Khải Huyền 1:5-6).

“Vậy, hỡi các anh chị em cùng Cha! Tôi khuyên các anh chị em hãy bởi những sự thương xót của Đức Chúa Trời mà dâng các thân thể của các anh chị em làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của các anh chị em.” (Rô-ma 12:1).

Con người xác thịt Jesus khi còn trên đất đã thi hành chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm trong Đền Thờ Thiên Chúa, là chính thân thể xác thịt của Ngài. Sau khi chịu chết và phục sinh, con người xác thịt Jesus tiếp tục thi hành chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm trong Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời. Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời là nơi Đức Chúa Trời ngự, mà trước khi Đức Chúa Jesus Christ chịu chết để chuộc tội cho loài người thì được gọi là Đền Tạm. Chúng ta có thể hiểu:

  • Trên đất, danh từ Đền Tạm được dùng để chỉ về lều trại được dựng làm nơi tạm thời thờ phượng Thiên Chúa, trong khi dân I-sơ-ra-ên đi trong đồng vắng, tiến về vùng Đất Hứa Ca-na-an.
  • Trên Trời, danh từ Đền Tạm được dùng khi Đức Chúa Jesus Christ chưa phục sinh, thăng thiên, và giữ chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm trọn vẹn và đời đời ở trên trời.
  • Trên đất, danh từ Đền Thờ được dùng để chỉ tòa nhà được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem làm nơi thờ phượng Thiên Chúa.
  • Trên trời, danh từ Đền Thờ được dùng kể từ khi Đức Chúa Jesus Christ dâng máu thánh của Ngài trên bàn thờ để cứu chuộc loài người. Vì thế mà trong Hê-bơ-rơ chúng ta thấy nói đến Đền Tạm nhưng trong Khải Huyền chúng ta chỉ thấy nói đến Đền Thờ.
  • Trong Vương Quốc Đời Đời của trời mới đất mới, Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ sẽ là Đền Thờ Thiên Chúa, khi thành thánh Giê-ru-sa-lem từ thiên đàng giáng xuống trên đất.

“Và, tôi không thấy đền thờ nào trong nó. Vì Chúa, Đức Chúa Trời, Đấng Toàn Năng và Chiên Con là đền thờ của nó.” (Khải Huyền 21:22).

Đại danh từ “nó” trong Khải Huyền 21:22 là chỉ về thành thánh Giê-ru-sa-lem từ trời hạ xuống trên đất trong trời mới đất mới (Khải Huyền 21).

Chúng ta cần chú ý đến mấy điểm sau đây. Thánh Kinh dùng danh từ “trời” số nhiều để chỉ các tầng trời, bao gồm:

  • Tầng trời thứ nhất là bầu khí quyển bao chung quanh trái đất.
  • Tầng trời thứ nhì là không gian bao la trong vũ trụ thuộc thể, chứa các ngôi sao và các hành tinh. Ngôi sao là những vật thể tự phát sáng trong không gian. Hành tinh là những vật thể quay chung quanh một ngôi sao và không tự phát sáng.
  • Tầng trời thứ ba là vũ trụ thuộc linh, nơi ngự của Thiên Chúa mà chúng ta quen gọi là thiên đàng. Danh từ thiên đàng là một từ Hán Việt. Thiên có nghĩa là bầu trời. Đàng có nghĩa là căn nhà lớn. Thiên đàng có nghĩa là căn nhà lớn ở trên trời.

Thánh Kinh dùng danh từ “trời” số ít để chỉ hoặc là thiên đàng, hoặc là không gian của vũ trụ vật chất, hoặc là bầu khí quyển của trái đất. Chúng ta tùy theo văn mạch mà biết nghĩa nào được dùng.

Danh từ “trời” trong nhóm chữ “trời mới đất mới” của Khải Huyền 21:1 là chỉ về không gian của vũ trụ vật chất. Danh từ “đất” trong cùng nhóm chữ ấy bao gồm cả bầu khí quyển bao chung quanh trái đất. Chúng ta hiểu, nhóm chữ “trời mới đất mới” chỉ chung về vũ trụ vật chất. Một ngày kia, sau thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm, trời đất hiện tại của vũ trụ vật chất sẽ qua đi, rồi trời mới đất mới của vũ trụ vật chất sẽ hiện ra.

Khi trời mới đất mới của vũ trụ vật chất hiện ra thì thiên đàng sẽ từ tầng trời thứ ba giáng xuống trên đất. Vũ trụ thuộc linh và vũ trụ thuộc thể sẽ hiệp một. Đức Chúa Trời sẽ đời đời hiện diện trong vũ trụ thuộc thể với loài người.

Danh từ Đền Tạm, Đền Thờ Đức Chúa Trời, hoặc Đền Thờ Thiên Chúa đều có chung một nghĩa là nơi ngự của Thiên Chúa, bao gồm:

  • Đền Tạm ở trên trời do Thiên Chúa dựng nên.
  • Đền Tạm trên đất do Môi-se dựng nên, làm hình bóng cho Đền Tạm ở trên trời.
  • Đền Tạm ở trên trời được gọi là Đền Thờ kể từ khi Đức Chúa Jesus Christ thi hành chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm trong thiên đàng.
  • Đền Thờ thứ nhất do Vua Sa-lô-môn dựng nên, làm hình bóng cho Đền Thờ ở trên trời.
  • Đền Thờ thứ nhì do E-xơ-ra và Nê-hê-mi tái thiết, do Vua Hê-rốt tu bổ.
  • Đền Thờ thứ ba sẽ được dân I-sơ-ra-ên dựng nên trong một ngày gần đây.
  • Hội Thánh là Đền Thờ (Ê-phê-sô 2:19-22) vì có sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Hội Thánh.
  • Thân thể xác thịt của Đấng Christ là Đền Thờ vì có sự hiện diện của Thiên Chúa trong thân thể ấy (Giăng 2:19-21).
  • Thân thể xác thịt của mỗi con dân Chúa là một Đền Thờ vì có sự hiện diện của Thiên Chúa trong thân thể của mỗi người (I Cô-rinh-tô 3:16; 6:19).
  • Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ sẽ là Đền Thờ trong Vương Quốc Đời Đời (Khải Huyền 21:22).

Chúng ta phải dựa vào văn mạch để biết danh từ “đền tạm” hoặc “đền thờ” được dùng với nghĩa nào.

Đức Chúa Jesus Christ chẳng những là thầy tế lễ thượng phẩm đời đời mà Ngài còn là sinh tế chuộc tội đời đời của loài người. Trong Vương Quốc Đời Đời của trời mới đất mới, Ngài vẫn mang danh hiệu Chiên Con. Danh hiệu “Chiên Con” là cách nói ngắn gọn từ danh xưng “Chiên Con của Đức Chúa Trời” (Giăng 1:29, 36), với ý nghĩa, Ngài là sinh tế chuộc tội cho loài người do chính Đức Chúa Trời sắm sẵn.

Đức Chúa Trời, đại diện cho Ba Ngôi Thiên Chúa, được gọi là Đấng Tôn Nghiêm trong các tầng trời. Danh từ “các tầng trời” bao gồm các tầng trời thuộc thể và tầng trời thuộc linh. Thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus Christ, dù là loài người nhưng được kể là bình đẳng với Đức Chúa Trời, vì được kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa Ngôi Lời. Thân thể xác thịt ấy đã được ban cho danh xưng “Đức Chúa Trời”, như Thi Thiên 45:6-7 đã công bố và Hê-bơ-rơ 1:8-9 đã tái khẳng định. Vì thế mà con người xác thịt Jesus được ngự bên phải Đức Chúa Trời, trên ngai của Thiên Chúa.

Kể từ khi Đức Chúa Jesus Christ thăng thiên thì Ngài thi hành chức vụ thầy tế lễ trong Đền Thờ nơi thiên đàng. Đền Thờ ấy là nơi các thiên sứ thờ phượng Đức Chúa Trời và cũng là nơi mà sự thờ phượng Đức Chúa Trời của loài người được các thiên sứ dâng trình lên Ngài:

“Rồi, một thiên sứ khác đến, đứng bên bàn thờ, có trong tay bình đựng hương bằng vàng, và người được ban cho nhiều hương để dâng trên bàn thờ bằng vàng, trước ngai, với những lời cầu nguyện của mọi thánh đồ. Khói hương từ tay thiên sứ bay lên trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời, với những lời cầu nguyện của các thánh đồ.” (Khải Huyền 8:3-4).

Trong trời mới đất mới, thành thánh Giê-ru-sa-lem ở trên trời sẽ giáng xuống trên đất, nhưng Đền Thờ sẽ không còn nữa, vì Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ sẽ là Đền Thờ đời đời. Điều đó có nghĩa là khắp nơi trong thành thánh Giê-ru-sa-lem đều có sự hiện diện của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ. Bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem là bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ, vì thế không cần có một đền thờ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem. Riêng Thiên Chúa trong thân vị Đức Thánh Linh sẽ đời đời hiện diện trong thân thể của mỗi con dân Chúa trong Hội Thánh; vì thân thể của mỗi con dân Chúa trong Hội Thánh đời đời là Đền Thờ Thiên Chúa.

3 Vì mỗi thầy tế lễ thượng phẩm đã được lập nên để dâng những lễ vật lẫn những sinh tế. Vậy nên, Đấng ấy cũng cần có vật gì để dâng.

Nhiệm vụ của thầy tế lễ, ngoài việc cầu thay cho con dân Chúa, thì việc chính là dâng của lễ chuộc tội lên Đức Chúa Trời và những của lễ tạ ơn của con dân Chúa. Đức Chúa Jesus Christ là thầy tế lễ thượng phẩm, ngoài việc cầu thay cho con dân Chúa thì Ngài cũng có nhiệm vụ dâng những của lễ lên Đức Chúa Trời. Câu này hàm ý, hiện nay, Đức Chúa Jesus Christ vẫn làm công việc dâng của lễ trong Đền Thờ trên thiên đàng. Mà của lễ quan trọng nhất chính là của lễ chuộc tội, máu thánh của Ngài, vì loài người vẫn tiếp tục phạm tội. Bên cạnh đó là sự dâng những việc lành của Hội Thánh như những của lễ tạ ơn của con dân Chúa lên Đức Chúa Trời.

4 Vì nếu Ngài thật vẫn ở trên đất, thì Ngài chẳng phải là thầy tế lễ; vì hiện có những thầy tế lễ đang dâng những lễ vật theo luật pháp.

Vào thời điểm Phao-lô viết thư Hê-bơ-rơ thì Đền Thờ Thiên Chúa vẫn còn tại Giê-ru-sa-lem. Các thầy tế lễ thượng phẩm vẫn tiếp nối nhau làm công việc dâng những lễ vật theo như luật định. Trong khi đó, Đức Chúa Jesus Christ đang thi hành chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm đời đời của Ngài trong Đền Thờ nơi thiên đàng. Nếu Đức Chúa Jesus Christ vẫn còn ở trên đất thì Ngài không thể thi hành chức vụ thầy tế lễ trong Đền Thờ Thiên Chúa tại Giê-ru-sa-lem, vì Ngài không phải là thầy tế lễ được lập nên thuộc dòng Lê-vi, theo ban A-rôn, như luật pháp của Đức Chúa Trời đã quy định.

5 Những người ấy phụng sự theo kiểu mẫu và hình bóng của những sự thuộc về trời, như Môi-se đã được phán truyền bởi Đức Chúa Trời khi ông sắp thực hiện Đền Tạm. Ngài phán: Hãy cẩn thận! Ngươi hãy làm mọi việc theo kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi tại trên núi. [Xuất Ê-díp-tô Ký 25:40]

Thực tế, sự phụng sự của những thầy tế lễ thuộc dòng Lê-vi, theo ban A-rôn chỉ là theo như kiểu mẫu và hình bóng cho chức vụ và công việc của Đấng Christ trên thiên đàng. Loài người không thể nhìn thấy sự Đức Chúa Jesus Christ dâng máu thánh của Ngài lên Đức Chúa Trời làm của lễ chuộc tội cho loài người trên thiên đàng. Nhưng qua công việc của những thầy tế lễ thượng phẩm trong đền thờ trên đất mà loài người phần nào hiểu được việc làm của Đức Chúa Jesus Christ.

6 Nhưng giờ đây, Ngài đã được một chức vụ cao trọng hơn nhiều. Ngài cũng là Đấng Trung Bảo của một giao ước tốt hơn, là sự được phê chuẩn bởi luật pháp trên những lời hứa tốt hơn.

Chức vụ cao trọng hơn nhiều là chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm đời đời trong Đền Thờ Thiên Chúa do chính Thiên Chúa dựng nên. Ngoài chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm đời đời, Đức Chúa Jesus Christ còn là Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người; vì Ngài đứng ra bảo lãnh cho giao ước giữa Đức Chúa Trời và loài người:

  • Ngài bảo đảm với loài người rằng, nếu loài người vâng phục Đức Chúa Trời thì mọi lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được hoàn thành cho loài người.
  • Ngài bảo đảm với Đức Chúa Trời rằng, tất cả mọi tội lỗi do chúng ta làm ra đều được chất hết trên thân thể của Ngài. Ngài vui lòng gánh thay hình phạt cho mọi tội lỗi của loài người.

Giao ước giữa Đức Chúa Trời và loài người là giao ước về sự Đức Chúa Trời tha thứ và ban ơn cho loài người, còn loài người thì ăn năn tội và vâng phục Đức Chúa Trời. Dân I-sơ-ra-ên được chọn làm dân tộc đại diện cho mọi dân tộc trong thế gian để kết giao ước với Đức Chúa Trời.

Giao ước thứ nhất còn gọi là Giao Ước Cũ (Cựu Ước) được thiết lập tại núi Si-na-i. Sự kiện thiết lập giao ước này được ghi lại trong Xuất Ê-díp-tô Ký từ đoạn 19 đến đoạn 24. Giao ước này được ấn chứng bởi máu của bò tơ (Xuất Ê-díp-tô Ký 24:8). Mặc dù là giao ước giữa Đức Chúa Trời và dân I-sơ-ra-ên nhưng tất cả những ai thuộc các dân tộc khác cũng được dự phần trong giao ước này, nếu họ vâng giữ các điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời, tức các điều khoản của giao ước (Xuất Ê-díp-tô Ký 12:48-49).

Trong giao ước thứ nhất, loài người được Đức Chúa Trời tha tội bởi sự nhờ thầy tế lễ dâng sinh tế chuộc tội bằng mạng sống của một con thú. Và loài người được Đức Chúa Trời ban ơn khi vâng giữ các điều răn và luật pháp của Ngài. Giao ước thứ nhất làm hình bóng cho giao ước thứ nhì và sau cùng, còn gọi là Giao Ước Mới (Tân Ước). Giao Ước Mới được gọi là giao ước tốt hơn vì được dựa trên các điều khoản và các lời hứa tốt hơn so với Giao Ước Cũ.

7 Vì nếu giao ước thứ nhất ấy không thiếu gì, thì chẳng có chỗ được yêu cầu cho giao ước thứ nhì.

Giao Ước Cũ có sự thiếu sót vì mục đích của nó là làm hình bóng cho Giao Ước Mới nên không có được những điều cần có như Giao Ước Mới. Khi chúng ta so sánh hình dáng thật của một người với hình bóng của người ấy thì chúng ta thấy rằng, hình bóng có thể tiêu biểu cho hình thật nhưng có nhiều thiếu sót khi so với hình thật.

Điển hình cho sự thiếu sót của Giao Ước Cũ là sự dâng mạng sống của một con thú tinh sạch chỉ là sự làm hình bóng cho sự dâng mạng sống của một người vô tội làm của lễ chuộc tội cho những người có tội. Của lễ chuộc tội chính là sự thi hành hình phạt của tội lỗi. Tội lỗi đã bởi một người làm ra và lưu truyền cho toàn thể loài người thì tội lỗi cũng phải bị hình phạt trên một người vô tội bởi sự tự nguyện gánh chịu của người ấy, để bất cứ ai trong loài người cũng được tha tội, nếu thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của người ấy. Ngoài ra, Giao Ước Cũ không có điều khoản tái sinh dành cho người thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Loài người vẫn mang bản tính tội lỗi nên cứ phạm tội. Chính vì thế mà có nhu cầu về giao ước thứ nhì.

Chúng ta phải hiểu rằng, không phải Giao Ước Cũ có sự thiếu sót là vì Đức Chúa Trời làm việc có thiếu sót. Mà là Giao Ước Cũ với sự thiếu sót của nó là cần thiết trong giai đoạn lịch sử chuẩn bị cho Giao Ước Mới. Mặc dù Giao Ước Mới thay thế Giao Ước Cũ nhưng không có nghĩa là các nguyên tắc căn bản của Giao Ước Cũ, điển hình là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, bị hủy bỏ. Trái lại, Giao Ước Mới giữ nguyên các nguyên tắc căn bản của Giao Ước Cũ nhưng thêm vào các điều khoản mới để trở thành một giao ước trọn vẹn và cuối cùng. Kính mời quý ông bà anh chị em đọc lại bài: “Các Giao Ước của Đức Chúa Trời” trên khu mạng: timhieutinlanh.com/thanhoc [1] để hiểu rõ về các giao ước.

8 Vì có thiếu sót nên Ngài phán với họ: Chúa phán, kìa, những ngày đến, khi Ta sẽ làm thành một giao ước mới với nhà I-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa;

Nhà I-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa vừa chỉ về hai vương quốc mà cũng hàm ý, nhà I-sơ-ra-ên chỉ chung về dân tộc I-sơ-ra-ên, nhà Giu-đa chỉ riêng về chi phái cầm quyền cai trị trên dân I-sơ-ra-ên. Giao Ước Mới được Đức Chúa Trời thiết lập với toàn dân I-sơ-ra-ên và các bậc cầm quyền của dân I-sơ-ra-ên.

Nhiều giáo sư giả trong các giáo hội mang danh Chúa ngày nay dạy rằng, Giao Ước Mới được Đức Chúa Trời lập với mọi dân tộc, nên Mười Điều Răn trong Giao Ước Cũ không còn hiệu lực. Rõ ràng đó là sự giảng dạy tà giáo do ma quỷ gieo rắc trong các giáo hội. Thánh Kinh không hề dạy rằng Giao Ước Mới được Đức Chúa Trời thiết lập với mọi dân tộc. Giao Ước Mới vẫn được thiết lập với dân I-sơ-ra-ên như Giao Ước Cũ trước đó. Các dân tộc khác muốn dự phần trong Giao Ước Mới thì phải vâng giữ các điều khoản của giao ước và được sát nhập vào dân I-sơ-ra-ên:

“Các con của người ngoại, họ tự kết hiệp cùng Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để phụng sự Ngài, để yêu danh của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để làm các tôi tớ của Ngài, là tất cả những người giữ ngày Sa-bát không làm ô uế nó, và giữ lời giao ước của Ta, thì Ta sẽ đem họ đến núi thánh của Ta, và làm cho họ được vui mừng trong nhà cầu nguyện của Ta. Các của lễ thiêu và các sinh tế của họ sẽ được nhận lấy trên bàn thờ của Ta; vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.” (Ê-sai 56:6-7).

“Nếu có những nhánh bị cắt đi và ngươi vốn là cây ô-li-ve hoang được tháp vào trong chỗ của chúng, dự phần về rễ và nhựa của cây ô-li-ve, thì chớ khoe mình nghịch lại các nhánh đó. Nhưng nếu ngươi khoe mình thì hãy biết rằng, chẳng phải ngươi chịu đựng cái rễ mà là cái rễ chịu đựng ngươi.” (Rô-ma 11:17-18).

Lời Chúa khẳng định rằng, tất cả những người dân ngoại tin nhận Tin Lành đều được nhập tịch dân I-sơ-ra-ên, được hưởng Giao Ước Mới mà Đức Chúa Trời đã thiết lập với dân I-sơ-ra-ên.

Ê-phê-sô 2:8-22

8 Vì nhờ ân điển mà các anh chị em được cứu bởi đức tin. Điều đó không đến từ các anh chị em mà là sự ban cho của Thiên Chúa.

9 Ấy chẳng phải bởi những việc làm đâu, để không ai khoe mình.

10 Vì chúng ta là việc do Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đấng Christ Jesus cho những việc lành, mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước, để chúng ta bước đi trong chúng.

11 Vậy, hãy nhớ rằng, trước kia, các anh chị em là những người ngoại trong xác thịt, bị gọi là người không chịu cắt bì bởi những kẻ xưng mình là người chịu cắt bì bằng tay trong xác thịt.

12 Lúc ấy, các anh chị em không có Đấng Christ, ở ngoài quyền công dân I-sơ-ra-ên, là khách lạ của các giao ước lời hứa, trong thế gian không có hy vọng và không có Thiên Chúa.

13 Nhưng trong Đấng Christ Jesus, các anh chị em là những người ngày trước cách xa, hiện nay đã được làm cho gần bởi máu của Đấng Christ.

14 Vì, ấy chính Ngài là sự hòa bình của chúng ta. Ngài đã hiệp cả hai làm một, phá đổ bức tường ngăn cách,

15 chấm dứt trong xác thịt của Ngài sự thù nghịch, tức là luật pháp của các điều răn trong các điều lệ, để Ngài lập nên trong chính Ngài cả hai thành một người mới, làm ra sự hòa bình.

16 Bởi thập tự giá Ngài đã phục hòa cả hai với Đức Chúa Trời trong một thân thể, qua đó, tiêu diệt sự thù nghịch;

17 và đã đến, rao truyền sự hòa bình cho các anh chị em là những người ở xa cùng những người ở gần.

18 Vì bởi Ngài mà chúng ta cả hai đều được cùng trong một thần trí đến gần Đức Cha.

19 Vì thế, các anh chị em chẳng còn là những khách lạ, những người ở trọ nữa, nhưng là những người đồng hương với các thánh đồ, và là những người nhà của Đức Chúa Trời,

20 đã được xây dựng trên nền tảng của các sứ đồ và các tiên tri. Chính Đức Chúa Jesus Christ là đá góc nhà.

21 Trong Ngài, cả cấu trúc cùng nhau phát triển thành một đền thờ thánh trong Chúa.

22 Trong Ngài, các anh chị em được kiến trúc thành chỗ ở của Đức Chúa Trời, trong thuộc linh [2], [3].

Dĩ nhiên, sự dân ngoại tin nhận Tin Lành được nhập tịch I-sơ-ra-ên là sự nhập tịch theo luật pháp của Đức Chúa Trời, không theo luật pháp của loài người. Qua Lời Chúa, chúng ta thấy rõ, những ai giảng dạy rằng, con dân Chúa thời Tân Ước không bị ràng buộc bởi Mười Điều Răn, là những người rao giảng tà giáo. Chúng ta cũng luôn ghi nhớ rằng, trong Kỳ Tận Thế, Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời được chính Ngài viết ra trên hai bảng đá, được chứa trong Rương Giao Ước, sẽ được dùng để phán xét toàn thế gian:

“Rồi, Đền Thờ của Đức Chúa Trời mở ra ở trên trời. Rương Giao Ước trong Đền Thờ của Ngài được thấy. Có những chớp nhoáng, những âm thanh và những sấm vang, cùng động đất và mưa đá lớn.” (Khải Huyền 11:19).

Chắc chắn rằng, trong hai bảng đá được chứa trong Rương Giao Ước vẫn có đủ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời; và toàn thế gian sẽ bị định tội vì đã vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời.

Con dân chân thật của Chúa hãy sớm rời xa các giáo hội mang danh Chúa nhưng giảng dạy tà giáo. Hãy biết rằng, những kẻ giảng giải sai lạc Lời Chúa thì sẽ tự chuốc lấy sự hư mất (II Phi-e-rơ 3:16). Họ hiểu sai Lời Chúa và giảng sai Lời Chúa vì họ kiêu ngạo, không thật sự ăn năn tội, nên họ không có sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.

9 không theo giao ước mà Ta đã lập với những tổ phụ của chúng nó, trong ngày Ta nắm tay họ, dẫn họ ra khỏi đất Ê-díp-tô. Vì họ không cứ ở lại trong giao ước của Ta, nên Ta đã không quan tâm họ, Chúa phán.

“Không theo” có nghĩa là không theo cách thức đã thiết lập. Với Giao Ước Cũ các điều khoản được ghi chép trên hai bảng đá và trên Sách Luật Pháp (Phục Truyền Luật Lệ Ký 31:26), còn gọi là Sách Giao Ước (Xuất Ê-díp-tô Ký 24:7); được ấn chứng bởi máu của bò tơ (Xuất Ê-díp-tô Ký 24:8).

Thành ngữ “nắm tay dẫn dắt” có nghĩa là đích thân hướng dẫn. Chính Đức Chúa Trời đã dẫn dắt dân I-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Chính Ngài đã hiện diện trong trụ mây và trụ lửa để dẫn đường cho họ, che chở họ, bảo vệ họ. Nhưng rồi bởi sự cứng lòng, cứ tái phạm tội của dân I-sơ-ra-ên mà Ngài đã đánh phạt họ, để rồi cuối cùng Ngài im lặng với họ trong suốt hơn 400 năm.

10 Ấy là giao ước mà Ta sẽ lập với nhà I-sơ-ra-ên sau những ngày đó, Chúa phán, ban cho những luật pháp của Ta vào trong trí của họ và ghi chúng lên trên những tấm lòng của họ. Ta sẽ là Thiên Chúa đối với họ và họ sẽ là dân chúng đối với Ta.

“Sau những ngày đó” là sau những ngày Đức Chúa Trời im lặng với dân I-sơ-ra-ên. Khi thời điểm đến, Đức Chúa Trời đã thiết lập Giao Ước Mới với dân I-sơ-ra-ên qua Đấng Christ. Giao Ước Mới được ấn chứng bằng máu thánh của Đức Chúa Jesus Christ; được mạc khải trong thần trí của những người tin nhận Tin Lành, và được ghi chép trên tấm lòng của họ.

Tất cả những ai vâng giữ các điều khoản của Giao Ước Mới đều công nhận Đức Chúa Trời là Thiên Chúa của họ và được Đức Chúa Trời công nhận họ là con dân của Ngài. Các điều khoản của Giao Ước Mới vẫn là các điều khoản của Giao Ước Cũ là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời nhưng thay thế sinh tế bằng mạng sống của Đức Chúa Jesus Christ. Và được thêm vào các điều khoản như sau:

  • Người tin nhận giao ước được Đức Chúa Jesus Christ làm cho sạch tội, được Đức Chúa Trời tái sinh, được Đức Thánh Linh ban cho thánh linh của Thiên Chúa.
  • Người tin nhận giao ước được nhập vào Hội Thánh, được hiệp một với Đức Chúa Jesus Christ.
  • Người tin nhận giao ước sẽ được đồng trị với Đức Chúa Jesus Christ cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời.

Người tin nhận Giao Ước Mới là người công nhận mình là tội nhân, vì đã vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời; thật lòng ăn năn tội, không còn muốn vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời nữa; và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Chính tấm lòng không còn muốn vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời nữa là tấm lòng công nhận và vâng theo Mười Lời của Đức Chúa Trời đã được Ngài làm cho tôn cao hơn cả danh của Ngài:

“Ông đã ở đó với Đấng Tự Hữu Hằng Hữu bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ông không ăn bánh, cũng không uống nước; Ngài đã chép trên các bảng đá các lời giao ước, tức là Mười Lời.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 34:28).

“Ngài rao truyền cho các ngươi giao ước của Ngài, mà Ngài ra lệnh cho các ngươi làm theo, tức là Mười Lời. Ngài chép chúng trên hai bảng đá.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:13).

“Ngài viết trên các bảng, như lần viết trước, Mười Lời mà Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đã phán với các ngươi, từ giữa lửa tại trên núi, trong ngày nhóm hiệp; rồi, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu trao chúng cho ta.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 10:4).

“Tôi sẽ thờ lạy hướng về đền thánh của Ngài và tôn vinh danh của Ngài, vì sự từ ái và sự chân thật của Ngài, vì Ngài đã tôn cao Lời của Ngài hơn cả danh của Ngài.” (Thi Thiên 138:2).

Mỗi con dân Chúa phải ghi nhớ hai lời phán quan trọng của Đức Chúa Jesus Christ và của Đức Thánh Linh về các điều răn của Đức Chúa Trời, như sau:

“Vì Ta phán với các ngươi, thật, cho đến khi trời và đất qua đi, một chấm hay một nét sẽ không qua đi trong luật pháp, cho đến khi mọi sự được trọn. Vậy, ai bỏ đi một trong các điều cực nhỏ nào trong các điều răn này, và dạy người ta làm như vậy, thì người ấy sẽ bị xưng là cực nhỏ trong Vương Quốc Trời; còn ai giữ và dạy các điều ấy, thì sẽ được xưng là lớn trong Vương Quốc Trời.” (Ma-thi-ơ 5:18-19).

“Vì này là tình yêu của Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài. Các điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề.” (I Giăng 5:3).

Bất cứ lời giảng dạy nào của bất cứ ai mà nghịch lại với hai lời phán trên đây của Đức Chúa Jesus Christ và của Đức Thánh Linh, thì đều là tà giáo. Con dân Chúa cần phải tránh xa, những kẻ theo tà giáo, sau khi đã hai lần khuyên bảo họ mà họ không từ bỏ tà giáo (Tít 3:10).

11 Họ sẽ chẳng có ai dạy bảo người lân cận của mình và anh chị em của mình, rằng: Hãy nhận biết Chúa! Vì hết thảy sẽ biết Ta, từ người rất nhỏ cho đến người rất lớn.

Trong thời Tân Ước, những người thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ sẽ không cần ai dạy cho họ nhận biết Thiên Chúa. Vì họ được tháp vào thân thể của Đức Chúa Jesus Christ là Hội Thánh, được Thiên Chúa trong thân vị Đức Thánh Linh ngự trong thân thể của họ, nên họ đương nhiên nhận biết Thiên Chúa.

Thành ngữ: “từ người rất nhỏ cho đến người rất lớn” bao gồm sự nhỏ và lớn trong hình dáng, trong tuổi tác, trong trí thức, trong địa vị, trong giai cấp, trong năng lực, v.v..

12 Vì Ta sẽ có lòng khoan dung cho sự không công chính của họ. Ta sẽ không nhớ đến những tội lỗi của họ và những sự vô luật pháp của họ. [Giê-rê-mi 31:31-34]

Khi một người tin nhận Tin Lành thì người ấy tiếp nhận Giao Ước Mới. Nhờ Giao Ước Mới mà người ấy được Đức Chúa Trời tha thứ mọi tội lỗi, tức mọi ý nghĩ, lời nói, và việc làm không công chính của người ấy. Không công chính có nghĩa là không đúng với Lời Chúa.

Đức Chúa Trời không nhớ đến những tội lỗi và những sự vô luật pháp của những ai ở trong Giao Ước Mới, có nghĩa là Ngài vẫn biết sự phạm tội của họ nhưng Ngài sẽ không bao giờ nhắc đến. Vì Ngài đã tha thứ cho họ. Vì máu của Đức Chúa Jesus Christ đã rửa sạch mọi tội lỗi của họ.

Chúng ta chú ý đến sự khác biệt giữa những điều được gọi là tội lỗi và những điều được gọi là sự vô luật pháp:

  • Tội lỗi là nhận biết các điều răn của Đức Chúa Trời nhưng không vâng giữ trọn vẹn các điều răn của Ngài.
  • Sự vô luật pháp là không quan tâm đến các điều răn của Đức Chúa Trời, hoàn toàn không vâng giữ các điều răn của Ngài. Trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh, sự vô luật pháp đồng nghĩa với sự phạm pháp, sự không công bình, và sự gian ác.

Sự khoan dung, tha thứ, không nhớ đến tội lỗi của Đức Chúa Trời chỉ áp dụng cho những người thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận Tin Lành, hết lòng vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa, vui sống theo Lời Chúa. Nhưng những ai tin nhận Tin Lành mà vẫn sống trong tội thì sẽ bị hình phạt nặng hơn là những người không tin nhận Tin Lành (Hê-bơ-rơ 6:4-8; 10:26-31; II Phi-e-rơ 2:20-22).

13 Trong sự gọi là mới, Ngài đã làm cho giao ước thứ nhất thành ra cũ và lỗi thời, gần biến mất.

“Sự gọi là mới” chính là Giao Ước Mới, tức là Tân Ước. Trong Giao Ước Mới, Đức Chúa Trời đã làm cho giao ước thứ nhất thành ra Giao Ước Cũ, tức là Cựu Ước. Khi cái mới hiện hành thì cái cũ trở thành lỗi thời, nghĩa là không mang lại tiện ích như cái mới đang dùng. Nhưng không có nghĩa là cái cũ không còn hiệu lực, nếu được dùng đúng cách, đúng hoàn cảnh. Giả sử một người I-sơ-ra-ên trước giờ chỉ biết đến Giao Ước Cũ, chưa bao giờ được nghe biết về Giao Ước Mới, thì sự người ấy tin nhận Giao Ước Cũ vẫn khiến cho người ấy nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Vì một người được cứu là nhờ có đức tin vào Đức Chúa Trời và vâng theo Lời Ngài. Tất cả những thánh đồ thời Cựu Ước và trước Cựu Ước đều được cứu là vì họ có đức tin nơi Đức Chúa Trời và vâng theo Lời Ngài. Nhưng nếu người I-sơ-ra-ên ấy đã được rao giảng Tin Lành mà không tin nhận Tin Lành, thì người ấy sẽ không có sự cứu rỗi.

Giao Ước Cũ đang ở trong tình trạng lỗi thời và gần biến mất. Những người I-sơ-ra-ên vâng giữ Giao Ước Cũ trong Kỳ Tận Thế vẫn được cứu. Khi Vương Quốc Ngàn Năm được thiết lập thì Giao Ước Cũ hoàn toàn biến mất. Những người được sinh ra trong thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm chỉ được cứu rỗi khi họ tin nhận Giao Ước Mới.

Cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Lời Hằng Sống của Ngài. Cảm tạ Đức Chúa Jesus Christ đã và đang làm thành mọi ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho loài người. Cảm tạ Đức Thánh Linh luôn dẫn chúng ta bước đi trong mọi lẽ thật, hiểu đúng về Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời và mọi việc làm của Đức Chúa Jesus Christ.

Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Thiên Chúa bao phủ chúng ta cho đến mãi mãi. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
25/05/2019

Ghi Chú

[1] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/cac-giao-uoc-cua-duc-chua-troi/

[2] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-e-phe-so-2_1-10/

[3] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-e-phe-so-2_11-22/

Karaoke Thánh Ca: “Xin Chúa Nghe Con Kêu Cầu”
https://karaokethanhca.net/xin-chua-nghe-con-keu-cau/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.
Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.