Chú Giải II Cô-rinh-tô 06:14-18 Hãy Ra Khỏi và Phân Rẽ

2,910 views

YouTube: https://youtu.be/kLc5MnLAm_0

Chú Giải II Cô-rinh-tô 6:14-18
Hãy Ra Khỏi và Phân Rẽ

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

II Cô-rinh-tô 6:14-18

14 Các anh chị em chớ trở nên mang ách chung với những kẻ chẳng tin. Vì sự công bình và sự bội nghịch có sự tương giao gì? Sự sáng với sự tối có sự thông công gì?

15 Đấng Christ với Bê-li-an có sự hiệp ý gì? Hay là người tin có phần gì với kẻ chẳng tin? [Bê-li-an có nghĩa là không có giá trị hoặc sự ác, kẻ ác; là một danh hiệu dùng cho Sa-tan.]

16 Đền Thờ của Thiên Chúa với đền thờ của các thần tượng có sự đồng thuận gì? Vì các anh chị em là Đền Thờ của Thiên Chúa Hằng Sống, như Đức Chúa Trời đã phán: Ta sẽ ở trong họ và Ta sẽ đi lại giữa họ. Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ và họ sẽ làm dân của Ta. [Lê-vi Ký 26:11-12; Giê-rê-mi 32:38; Ê-xê-chi-ên 37:27]

17 Bởi vậy, Chúa phán: Các ngươi hãy ra khỏi giữa chúng nó và các ngươi hãy phân rẽ; các ngươi cũng đừng đụng đến đồ ô uế. Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi. [Ê-sai 52:11; Giê-rê-mi 51:45]

18 Ta sẽ làm Cha cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm những con trai và những con gái cho Ta. Chúa Toàn Năng phán. [II Sa-mu-ên 7:14]

Một trong các tà giáo được nhiều giáo hội mang danh Chúa giảng dạy là tà giáo “Được cứu một lần, được cứu vĩnh viễn” (Once saved always saved, viết tắt là OSAS). Tà giáo ấy dạy rằng, khi một người đã có lần ăn năn tội, tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ thì người ấy sẽ không bao giờ bị hư mất trở lại, cho dù nếp sống sau đó của người ấy như thế nào. Tà giáo ấy dạy rằng: Nếu sau khi tin nhận Chúa mà người ấy vẫn còn sống trong tội thì người ấy chỉ bị mất phần thưởng chứ không bị mất sự cứu rỗi. Tuy nhiên, không một chỗ nào trong Thánh Kinh dạy như vậy. Lời Đức Chúa Jesus Christ cảnh cáo các môn đồ của Ngài, được ghi lại trong Giăng 15:1-6, đã cho chúng ta thấy rõ, một người ở trong Đấng Christ vẫn có thể bị Đức Chúa Trời chặt bỏ và bị hư mất, nếu không kết quả xứng đáng với sự ăn năn tội, nghĩa là nếu không sống nếp sống vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa. Khải Huyền 3:16 cũng ghi lại lời cảnh cáo của Đức Chúa Jesus Christ về sự những người trong Hội Thánh mà hâm hẩm, không hết lòng sống theo Lời Chúa thì sẽ bị Ngài mửa ra. Và lời cảnh báo nghiêm trọng hơn hết là của Đức Thánh Linh được ghi lại trong Hê-bơ-rơ 6:4-8; 10:25-31.

Lời của Đức Chúa Jesus Christ dành cho những người đã được Ngài cứu giúp là: “Đừng phạm tội nữa!”

“…Kìa, ngươi đã được lành! Đừng phạm tội nữa! Kẻo sự xấu hơn sẽ đến với ngươi!” (Giăng 5:14).

“…Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi! Đừng phạm tội nữa!” (Giăng 8:11).

Nếu một người đã tin nhận sự chết chuộc tội của Đấng Christ mà sau đó lại không làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời (được thể hiện qua Mười Điều Răn) thì người ấy sẽ không có sự cứu rỗi, người ấy là kẻ làm ác. Lời Chúa đã dạy rõ như vậy:

“Chẳng phải hễ ai nói với Ta rằng: Lạy Chúa! Lạy Chúa! Thì sẽ được vào trong Vương Quốc Trời, nhưng ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Ta rằng: Lạy Chúa! Lạy Chúa! Chúng tôi chẳng từng nhân danh Ngài nói tiên tri sao? Nhân danh Ngài trừ quỷ sao? Nhân danh Ngài làm nhiều phép lạ sao? Khi ấy, Ta sẽ khẳng định với họ rằng: Ta chẳng biết các ngươi bao giờ! Hãy lui ra khỏi Ta! Các ngươi là những kẻ làm ác.” (Ma-thi-ơ 7:21-23).

Vào cuối kỳ tận thế, sau khi Đấng Christ cùng Hội Thánh và các thiên sứ giáng lâm trên đất, Ngài sẽ nhốt Sa-tan vào vực sâu trong âm phủ, ném AntiChrist và tiên tri của hắn đang còn sống vào trong hồ lửa, tiêu diệt tất cả những người mang con dấu của AntiChrist bởi lời phán của Ngài (Khải Huyền 19:11-21). Kế tiếp, Ngài sẽ nhóm hiệp muôn dân trên đất (Ma-thi-ơ 25:31-46). Khi ấy, chỉ có những người tin nhận Tin Lành trong suốt bảy năm đại nạn của Kỳ Tận Thế, không theo AntiChrist, chưa bị AntiChrist giết là còn sống. Những người ấy chịu khổ vì sự bách hại của AntiChrist mà vẫn giữ vững đức tin vào sự cứu rỗi của Tin Lành. Nhưng trong số họ, có nhiều người không vâng giữ điều răn mới của Đấng Christ (Giăng 13:34), tức là không yêu và không cứu giúp anh chị em cùng Cha của họ, nên họ bị mất sự cứu rỗi. Đức Chúa Jesus Christ gọi họ là “những kẻ bị rủa”:

“Kế đó, Ngài cũng sẽ phán với những người ở bên trái rằng: Hỡi những kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi Ta; đi vào lửa vĩnh hằng đã sắm sẵn cho Ma Quỷ và những sứ giả của nó.” (Ma-thi-ơ 25:41).

Bị chặt bỏ, bị ném vào lửa, bị mửa ra, không được phục hồi vào trong sự ăn năn, bị bỏ và gần sự nguyền rủa, sự cuối cùng là vào trong sự thiêu đốt, không còn chừa lại sinh tế chuộc tội, chỉ có một sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ thiêu nuốt… là các sự Thánh Kinh khẳng định sẽ xảy ra cho những ai đã tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời mà rồi quay lại sống nếp sống trong tội, vi phạm các điều răn của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy rõ, tà giáo “Được cứu một lần, được cứu vĩnh viễn” hoàn toàn nghịch lại Lời Chúa. Tà giáo này đã và đang khiến cho nhiều người xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ mà vẫn tiếp tục sống trong tội, tiếp tục sống nếp sống thù nghịch thập tự giá (Phi-líp 3:18). Tà giáo này đã và đang khiến cho hàng tỷ người đi vào trong sự hư mất đời đời.

Một trong những việc quan trọng người tin Chúa cần phải làm, ngay sau khi tin nhận sự cứu rỗi của Chúa, để đừng phạm tội nữa là chớ mang ách chung với những kẻ chẳng tin. Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về lời Đức Thánh Linh kêu gọi con dân Chúa chớ mang ách chung với những kẻ chẳng tin. Sự định nghĩa các từ ngữ trong các câu Thánh Kinh dưới đây là định nghĩa theo nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh [1].

14 Các anh chị em chớ trở nên mang ách chung với những kẻ chẳng tin. Vì sự công bình và sự bội nghịch có sự tương giao gì? Sự sáng với sự tối có sự thông công gì?

Động từ “trở nên” (G1096) có nghĩa là bắt đầu xảy ra, bắt đầu trở thành…

Cái ách (G2218): một dụng cụ làm bằng gỗ, máng vào cổ của hai gia súc để chúng cùng nhau làm việc, như kéo cầy hoặc kéo xe.

Cái ách: Image by skeeze from Pixabay

“Mang ách chung” (G2086) có nghĩa là cùng nhau chịu khổ cách không xứng đáng hoặc không bình đẳng để làm việc cho một mục đích hoặc cho một chủ.

“Kẻ chẳng tin” (G0571) có thể là người không tin nhận Tin Lành, không tin kính Thiên Chúa; cũng có thể là người chỉ tin nhận Tin Lành trên môi miệng để được sinh hoạt trong Hội Thánh vì một mục đích nào đó. Có thể là kẻ theo lệnh nhà cầm quyền, theo dõi hoạt động của Hội Thánh; có thể là kẻ muốn lợi dụng lòng tốt của Hội Thánh; có thể là vì cha mẹ hoặc chồng hay vợ của kẻ ấy là con dân Chúa.

“Sự công bình” (G1343) có nghĩa là tình trạng hoặc phẩm chất của một người được Thiên Chúa chấp nhận; cũng có nghĩa là nếp sống đúng theo Lời Chúa: ăn năn tội; tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời; sống chân thật, trong sạch, nhân từ.

“Sự bội nghịch” (G0458) có nghĩa là sự tranh cãi, kiên quyết đưa ra ý kiến trái nghịch; sự phản loạn. Sự bội nghịch được nói đến trong câu này là sự bội nghịch Thiên Chúa bởi sự vi phạm các điều răn của Ngài.

“Sự tương giao” (G3352) có nghĩa là giao tiếp với nhau để cùng chia sẻ và chia xẻ với nhau.

“Sự thông công” (G2842) có nghĩa là quan hệ và kết nối với nhau, cùng nhau hành động; cùng dự phần trong mọi sự với nhau. Cũng được dùng để gọi sự quan hệ rất mật thiết với nhau như quan hệ tình dục.

Con dân Chúa không thể bắt đầu mang ách chung với những người không tin Chúa hoặc những người không thật lòng tin Chúa. Vì sự trở nên hay bắt đầu mang ách chung với những kẻ chẳng tin sẽ khiến cho con dân Chúa trở thành nô lệ cho thần tượng của những kẻ chẳng tin. Thần tượng của những kẻ chẳng tin có thể là các tà thần mà những kẻ ấy thờ phượng, hầu việc; mà cũng có thể là chính bản thân những kẻ ấy. Sự mang ách chung với những kẻ chẳng tin bao gồm: sự kết hôn, sự hùn hạp làm ăn, sự cùng tổ chức công tác từ thiện trong xã hội… với những người không tin Chúa hoặc với những người tin Chúa mà không hết lòng sống theo Lời Chúa. Nhưng các sự sau đây không phải là mang ách chung với những kẻ chẳng tin:

  • Làm việc cho người chủ không tin Chúa.
  • Thuê người không tin Chúa làm việc cho mình.
  • Cùng làm thuê trong hãng xưởng, trong văn phòng với người không tin Chúa.

Người tin Chúa là người công bình theo tiêu chuẩn của Chúa. Có nghĩa là người ấy nhận biết mình là tội nhân, thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo Lời Chúa là Thánh Kinh. Người không tin Chúa là người không công bình theo tiêu chuẩn của Chúa.

Người tin Chúa có thể làm bạn và giúp đỡ cũng như nhận sự giúp đỡ từ người không tin Chúa nhưng không thể mang ách chung với người không tin Chúa (I Cô-rinh-tô 5:9-10).

Người tin Chúa cũng không thể mang ách chung với người xưng nhận là tin Chúa nhưng sống nếp sống phạm các điều răn của Chúa. Đối với những người như vậy, người tin Chúa phải dứt thông công, xem họ như những kẻ phạm tội nghiêm trọng nhất trong những người không tin Chúa (Ma-thi-ơ 18:15-18; I Cô-rinh-tô 5:11-13).

Không có sự tương giao giữa sự công bình với sự bội nghịch. Vì sự công bình sẽ phán xét sự bội nghịch; người công bình sẽ phán xét người bội nghịch. Không có sự thông công giữa sự tối và sự sáng. Vì khi sự sáng đến thì sự tối bị tiêu diệt. Sự sáng trong câu này hàm ý sự thánh khiết của Thiên Chúa và sự được nên thánh bởi Thiên Chúa. Sự tối trong câu này hàm ý sự ô uế bởi tội lỗi. Tội lỗi là sự không vâng phục các điều răn của Thiên Chúa.

Khi hai người tương giao với nhau hoặc thông công với nhau thì sẽ ảnh hưởng bởi cá tính, phẩm chất của nhau. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Vì thế, người công bình không thể tương giao hoặc thông công với người bội nghịch Thiên Chúa; người tin Chúa không thể mang ách chung với người không tin Chúa.

Trong hôn nhân, con dân Chúa tuyệt đối không được kết hôn với người không thật lòng tin Chúa. Nhưng trong trường hợp vợ chồng cùng là người không tin Chúa, sau đó, một trong hai người tin Chúa, thì người tin Chúa được Chúa ban cho sự lựa chọn: hoặc là ly dị người chồng hay người vợ không tin Chúa, hoặc là tiếp tục sống với người chồng hay người vợ không tin Chúa. Nếu người tin Chúa chọn tiếp tục sống chung với người chồng hay người vợ không tin Chúa thì Chúa sẽ thánh hóa thân thể của người chồng hay người vợ không tin Chúa để sự kết hiệp của vợ chồng có thể xảy ra, mà người tin Chúa không bị ô uế (I Cô-rinh-tô 7:12-16).

Tuy nhiên, người tin Chúa chỉ nên chọn tiếp tục sống chung với người chồng hay người vợ không tin Chúa nếu người ấy:

  • Không bách hại đức tin của mình, không nói lời xúc phạm Chúa.
  • Không thờ lạy thần tượng.
  • Không ngoại tình.
  • Cho phép con cái tự do tin Chúa.

Trong I Cô-rinh-tô 7:12-13, Phao-lô nói rõ, không phải Chúa mà là ông bảo con dân Chúa tại Cô-rinh-tô về việc sống chung với người chồng hay người vợ không tin Chúa:

“Về những người khác, chẳng phải Chúa, mà là tôi bảo họ rằng: Nếu người anh em cùng Cha nào có vợ không tin Chúa, và nàng bằng lòng ở chung với mình, thì người ấy không nên từ bỏ nàng. Còn người đàn bà nào có chồng không tin Chúa, và anh ta bằng lòng ở chung với mình, thì nàng không nên từ bỏ anh ta.” (I Cô-rinh-tô 7:12-13).

Điều đó có nghĩa là Chúa không truyền lệnh cho chúng ta tiếp tục sống với người chồng hay người vợ không tin Chúa, nhưng Chúa cho phép chúng ta sống với người chồng hay người vợ không tin Chúa nếu người ấy vẫn bằng lòng ở chung với chúng ta. Bằng lòng ở chung có nghĩa là không bách hại đức tin của chúng ta. Vì thế, nếu người chồng hay người vợ không tin Chúa thể hiện một trong các điều sau đây: bách hại đức tin của chúng ta, nói những lời xúc phạm Chúa, thờ lạy hình tượng, cấm con cái tin nhận Chúa, hay ngoại tình thì chúng ta nên ly dị người ấy để được sống bình an và kết quả cho Chúa. Sau khi ly dị, chúng ta có thể tái hôn với một người thật lòng tin kính Chúa. Chúng ta có thể cho người chồng hay người vợ không tin Chúa thời gian một năm để người ấy nhận thấy Chúa đã thay đổi chúng ta như thế nào, và trong khoảng thời gian một năm ấy, chúng ta tích cực cầu thay cho người ấy, giảng Tin Lành cho người ấy.

Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhớ là Chúa không buộc chúng ta phải tiếp tục sống chung với người chồng hay người vợ không tin Chúa, mà Ngài chỉ cho phép chúng ta nếu chúng ta chọn tiếp tục sống chung với người ấy.

15 Đấng Christ với Bê-li-an có sự hiệp ý gì? Hay là người tin có phần gì với kẻ chẳng tin? [Bê-li-an có nghĩa là không có giá trị hoặc sự ác, kẻ ác; là một danh hiệu dùng cho Sa-tan.]

Danh xưng Christ có nghĩa là người được xức dầu, hàm ý, người được Đức Chúa Trời chọn lựa vào trong một chức vụ, ban thẩm quyền và ban ơn để người ấy thi hành chức vụ. Đức Chúa Jesus được Đức Chúa Trời chọn vào trong chức vụ Đấng Cứu Rỗi để giải cứu loài người ra khỏi sức mạnh và hậu quả của tội lỗi. Để thi hành chức vụ của Đấng Cứu Rỗi, Đức Chúa Jesus đã được Đức Chúa Trời ban cho ba chức vụ: tiên tri, thầy tế lễ, và vua. Là tiên tri, Đức Chúa Jesus công bố ý muốn và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho loài người; kêu gọi loài người ăn năn tội và tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Là thầy tế lễ, Đức Chúa Jesus dâng chính mạng sống mình lên Đức Chúa Trời làm của lễ chuộc tội cho toàn thể loài người. Là vua, Đức Chúa Jesus cai trị những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và phán xét những ai không tin nhận.

Danh xưng Bê-li-an có nghĩa là sự không có giá trị hoặc sự ác, kẻ ác. Trong Cựu Ước thường dùng thành ngữ “con cái của Bê-li-an” để chỉ những kẻ ác; Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống thường dịch là “người gian tà”. Con cái của Bê-li-an là con cái của sự ác, tức con cái của Sa-tan (Giăng 8:44). Vậy, Bê-li-an cũng chính là một danh hiệu Thánh Kinh dùng để gọi Sa-tan.

Đấng Christ và Sa-tan không thể hiệp ý với nhau. Vì ý của Đấng Christ là vâng phục Đức Chúa Trời cách trọn vẹn, ý của Sa-tan là chống nghịch Đức Chúa Trời cho đến cuối cùng.

Người tin Chúa chỉ có phần trong sự hưởng cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời mà không có phần trong sự bị hư mất đời đời của người không tin Chúa.

16 Đền Thờ của Thiên Chúa với đền thờ của các thần tượng có sự đồng thuận gì? Vì các anh chị em là Đền Thờ của Thiên Chúa Hằng Sống, như Đức Chúa Trời đã phán: Ta sẽ ở trong họ và Ta sẽ đi lại giữa họ. Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ và họ sẽ làm dân của Ta. [Lê-vi Ký 26:11-12; Giê-rê-mi 32:38; Ê-xê-chi-ên 37:27]

“Đền Thờ của Thiên Chúa” trong câu này chỉ về thân thể xác thịt của con dân Chúa (I Cô-rinh-tô 3:16).

“Đền thờ của các thần tượng” hàm ý thân thể xác thịt của những người không tin Chúa.

Người tin Chúa thờ phượng Chúa và phụng sự Chúa; còn người không tin Chúa thờ phượng thần tượng và phụng sự thần tượng. Người tin Chúa không thể cùng người không tin Chúa thờ phượng thần tượng hoặc phụng sự thần tượng. Vì thế, thân thể xác thịt của con dân Chúa không thể đồng thuận với thân thể của người không tin Chúa trên phương diện thuộc linh.

Ngày nay có phong trào “liên tôn” là sự kết hiệp các tôn giáo cho một mục đích nào đó. Nhiều người mang danh là con dân Chúa, tôi tớ Chúa mà lại dự phần trong các tổ chức “liên tôn”. Đó chính là sự mang ách chung với những kẻ chẳng tin.

Là con dân Chúa, mỗi chúng ta là một Đền Thờ Sống thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa. Thiên Chúa ngự trong chúng ta, đi lại giữa chúng ta, làm Thiên Chúa của chúng ta, và chúng ta làm dân của Ngài.

Thiên Chúa ở trong chúng ta có nghĩa là Ngài ngự trong thân thể của chúng ta để tương giao với tâm thần của chúng ta, dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật (Giăng 16:13).

Thiên Chúa đi lại giữa chúng ta để bảo vệ và đồng hành với chúng ta trong suốt thời gian chúng ta còn ở trên đất, trong thân thể xác thịt này (Ma-thi-ơ 28:20; Khải Huyền 1:13).

Thiên Chúa làm Thiên Chúa của chúng ta có nghĩa Ngài là Đấng dựng nên chúng ta, tái sinh chúng ta, ban cơ nghiệp của Ngài cho chúng ta, và đời đời cai trị chúng ta bằng tình yêu, ân điển, và sự toàn năng của Ngài.

Chúng ta làm dân của Ngài có nghĩa là chúng ta được mãi mãi ở trong Vương Quốc Đời Đời của Ngài.

17 Bởi vậy, Chúa phán: Các ngươi hãy ra khỏi giữa chúng nó và các ngươi hãy phân rẽ; các ngươi cũng đừng đụng đến đồ ô uế. Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi. [Ê-sai 52:11; Giê-rê-mi 51:45]

18 Ta sẽ làm Cha cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm những con trai và những con gái cho Ta. Chúa Toàn Năng phán. [II Sa-mu-ên 7:14]

“Bởi vậy” là bởi lời phán: “Ta sẽ ở trong họ và Ta sẽ đi lại giữa họ. Ta sẽ làm Thiên Chúa của họ và họ sẽ làm dân của Ta” được trích dẫn từ Lê-vi Ký 26:11-12; Giê-rê-mi 32:38; và Ê-xê-chi-ên 37:27.

“Hãy ra khỏi giữa chúng nó” là hãy ra khỏi giữa sự tương giao và thông công với những người không tin Chúa, hoặc những người tin Chúa mà không sống theo Lời Chúa. Có nghĩa là cũng không tham dự sinh hoạt trong các tổ chức tôn giáo mang danh Chúa của những người không vâng giữ các điều răn của Chúa. Đây là một mệnh lệnh của Chúa.

“Hãy phân rẽ” có nghĩa là sau khi ra khỏi thì không giữ sự liên lạc, giao tiếp, nhưng biệt riêng mình cho Chúa. Đây cũng là một mệnh lệnh của Chúa.

“Đừng đụng đến đồ ô uế” có nghĩa là đừng đụng chạm đến bất cứ những gì liên quan đến tội lỗi, đến thần tượng, đến của cúng thần tượng, đến hình tượng; cũng đừng góp ý, ủng hộ, hoặc tham dự những việc làm không đúng Lời Chúa. Đây cũng là một mệnh lệnh của Chúa.

Các việc sau đây đều là đụng đến đồ ô uế:

  • Tham dự vào việc mua sắm, sửa soạn thức ăn để cúng giỗ người chết hoặc cúng tế thần tượng.
  • Mua sắm các hình tượng; chụp hình lưu niệm với các hình tượng (Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:16-18).
  • Đến những nơi thờ thần tượng, hoặc có hình tượng; kể cả việc vào trong các nhà thờ có hình tượng gọi là tượng Chúa và tượng các thánh.
  • Quyên góp cho việc xây cất đền thờ tà thần hoặc quyên góp cho việc làm từ thiện của các tổ chức tôn giáo. Vì sự làm từ thiện của các tổ chức tôn giáo là sự tôn vinh các tà thần mà họ thờ phượng.
  • Dâng hiến tiền bạc, công sức vào các giáo hội mang danh Chúa mà giảng dạy tà giáo. Vì những tổ chức tôn giáo mang danh Chúa nhưng không vâng giữ các điều răn của Chúa thì thực tế họ thờ phượng một Chúa khác với Chúa của Thánh Kinh; Tin Lành họ rao giảng là một Tin Lành khác với Tin Lành của Thánh Kinh.

Cả ba mệnh lệnh trên là điều kiện để được Chúa tiếp nhận. Như vậy, sau khi một người đã thật lòng ăn năn tội, đã tin nhận sự chết chuộc tội của Đấng Christ, đã được Đức Chúa Trời tái sinh, thì người ấy phải ra khỏi những kẻ chẳng tin, phải phân rẽ khỏi họ, không đụng chạm đến những gì là ô uế, thì Chúa mới tiếp nhận người ấy làm dân của Ngài, làm con trai hoặc con gái của Ngài.

Mệnh đề “những con trai và những con gái” giúp cho chúng ta hiểu rằng, ngay đang khi chúng ta còn là những người nam và những người nữ trong thân thể xác thịt hiện tại thì Đức Chúa Trời đã tiếp nhận chúng ta làm con của Ngài, nếu chúng ta làm theo các mệnh lệnh của Ngài.

Lời phán của Đức Chúa Jesus được ghi lại trong Ma-thi-ơ 22:30 và Mác 12:25 về sự con dân Chúa sau khi sống lại sẽ không cưới vợ cũng không lấy chồng, nhưng giống như các thiên sứ ở trên trời, dường như hàm ý sẽ không có phân biệt nam và nữ trong đời sau. Thánh Kinh cũng không hề nói đến các thiên sứ có giống tính nam và nữ. Vì trong thực tế, giống tính nam và nữ là để phục vụ cho sự lưu truyền dòng giống. Nếu không có sự lưu truyền dòng giống thì không cần có giống tính nam và nữ. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, loài người trong đời sau, dù không còn chức năng lưu truyền dòng giống nhưng vẫn có thể giữ hình thể nam hoặc nữ mà không cần có bộ phận sinh dục.

Không còn bao lâu nữa, chúng ta sẽ biết thân thể xác thịt đời sau của chúng ta sẽ như thế nào. Vì ngày Chúa đến để ban cho chúng ta thân thể xác thịt vinh quang và bất tử, trước khi đem chúng ta vào trong thiên đàng, đã rất gần. Ngày ấy có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, ngay cả có thể xảy ra trong hơi thở kế tiếp của chúng ta. Vậy, chúng ta hãy giữ mình thánh sạch, sẵn sàng cho sự đến của Chúa. Hãy ra khỏi những tổ chức tôn giáo mang danh Chúa mà không vâng giữ các điều răn của Chúa. Hãy ra khỏi những tổ chức của thế gian vì chúng bao gồm những người không tin Chúa. Sau khi ra khỏi thì hãy phân rẽ, đừng giữ sự liên lạc, giao tiếp với họ; nhưng hãy biệt riêng mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa. Đừng đụng chạm đến, đừng dự phần trong bất cứ những gì liên quan đến tội lỗi, thần tượng, của cúng thần tượng, hình tượng, hoặc những việc làm không đúng Lời Chúa.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
10/10/2020

Ghi Chú

[1] https://thewordtoyou.net/dictionary/

Karaoke Thánh Ca: “Đến với Jesus”
https://karaokethanhca.net/den-voi-jesus/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.