Chú Giải Hê-bơ-rơ 07:01-22 Đấng Christ Là Thầy Tế Lễ Đời Đời và Trọn Vẹn

3,193 views

Chú Giải Hê-bơ-rơ 7:1-22
Đấng Christ Là Thầy Tế Lễ Đời Đời và Trọn Vẹn

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

OpenDrive: https://od.lk/d/MV8xNzg2OTMzODlf/58014_DangChristLaThayTeLeDoiDoiVaTronVen_07_01-22.mp3
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/58014-dangchristlathayteledoidoivatronven-heboro-07-01-22
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/lsxiry20jzifkf8/58014_DangChristLaThayTeLeDoiDoiVaTronVen_07_01-22.mp3/file

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

Amazon Drive: https://www.amazon.com/clouddrive/share/EERPUwTASJiTF0aRyt5inO35U3LZbPYs8qE7kOvo5oU
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Hê-bơ-rơ 7:1-22

1 Vì Mên-chi-xê-đéc đó, vua của Sa-lem, thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đã gặp Áp-ra-ham lúc ông đang quay về từ cuộc tàn sát các vua, và chúc phước cho ông.

2 Và Áp-ra-ham đã phân chia một phần mười về mọi vật cho người. Thật ra, trước hết, tên của người được giải nghĩa là Vua Công Chính, kế tiếp, Vua của Sa-lem tức là Vua Bình An.

3 Không cha, không mẹ, không gia phả, không có những ngày bắt đầu, không có những ngày cuối cùng của đời sống, nhưng được làm giống như Con của Đức Chúa Trời, cứ tiếp tục là thầy tế lễ.

4 Hãy nghĩ xem! Người vĩ đại biết bao! Người mà chính tổ phụ Áp-ra-ham đã dâng một phần mười của chiến lợi phẩm.

5 Thực tế, những người thuộc con cháu của Lê-vi nhận chức thầy tế lễ, theo luật pháp, có điều răn cho phép nhận lấy một phần mười của dân. Đó là của anh chị em cùng tổ phụ của họ, vì họ cũng ra từ lòng của Áp-ra-ham.

6 Nhưng người không được kể là cùng gia tộc với họ, đã nhận một phần mười của Áp-ra-ham và chúc phước cho người có lời hứa.

7 Người bậc cao chúc phước cho người bậc thấp là điều không cãi được.

8 Thực tế ở đây: Những người thu nhận một phần mười đều là những người chết; nhưng đằng kia, được làm chứng cho là người đang sống.

9 Vậy, có thể nói một lời như thế này: Lê-vi, người thu nhận một phần mười cũng nộp một phần mười, qua Áp-ra-ham.

10 Vì Lê-vi vẫn còn ở bên trong hông của tổ phụ mình, khi Mên-chi-xê-đéc gặp ông ấy.

11 Vậy, nếu thực tế sự trọn vẹn là bởi chức thầy tế lễ của người Lê-vi, vì dựa trên nó mà dân chúng được phê chuẩn bởi luật pháp, thì cần gì thêm một thầy tế lễ khác, lập theo ban Mên-chi-xê-đéc, mà không được gọi theo ban A-rôn?

12 Vì chức thầy tế lễ đã thay đổi thì cũng cần có sự thay đổi về luật pháp.

13 Vì Đấng mà những lời đó phán về, thuộc một chi phái khác, trong chi phái đó không có ai dự việc nơi bàn thờ.

14 Vì hiển nhiên rằng, Chúa của chúng ta nổi lên từ Giu-đa. Về chi phái ấy, Môi-se đã không nói điều gì về chức thầy tế lễ.

15 Điều đó càng rõ ràng hơn nữa, khi một thầy tế lễ khác được dấy lên, giống như Mên-chi-xê-đéc.

16 Ngài được lập nên không theo điều răn xác thịt, nhưng theo năng lực của sự sống vô hạn.

17 Vì Ngài [Đức Chúa Trời] làm chứng cho Ngài rằng: Ngươi là thầy tế lễ mãi mãi, theo ban Mên-chi-xê-đéc. [Thi Thiên 110:4]

18 Vì thật đã xảy ra sự vô hiệu hóa điều răn [về luật thầy tế lễ] trước kia, bởi sự yếu kém và không ích lợi của nó.

19 Vì luật pháp không làm cho điều gì trở nên trọn vẹn, nhưng đem đến một sự trông cậy tốt hơn, bởi đó chúng ta đến gần Đức Chúa Trời.

20 Ngoài ra, sự thay đổi này chẳng phải là không có lời thề mà được làm ra.

21 Những thầy tế lễ khác thực tế đã không bởi lời thề mà được lập nên, nhưng Ngài đã được lập nên với lời thề, bởi Đấng đã phán với Ngài: Chúa đã thề và sẽ không hối tiếc. Ngươi là thầy tế lễ mãi mãi theo ban Mên-chi-xê-đéc. [Thi Thiên 110:4]

22 Đức Chúa Jesus đã trở nên Đấng bảo lãnh cho một giao ước tốt hơn rất nhiều.

Chức vụ thầy tế lễ là một chức vụ quan trọng trong sự loài người thờ phượng Đức Chúa Trời và tương giao với Đức Chúa Trời. Bổn phận của thầy tế lễ là thay cho con dân Chúa, dâng lên Đức Chúa Trời các của lễ trong sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Đồng thời, thầy tế lễ cũng có bổn phận cầu thay cho con dân Chúa.

Đặc biệt, có một thầy tế lễ cả, còn gọi là thầy tế lễ thượng phẩm, đứng đầu trong các thầy tế lễ, là người duy nhất mỗi năm một lần, trong ngày Lễ Chuộc Tội được bước vào trong nơi Chí Thánh của đền thờ Thiên Chúa, trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời, mà dâng hương và rưới máu của sinh tế chuộc tội cho bản thân và cho toàn thể con dân Chúa (Lê-vi Ký 16).

Trong lịch sử của dân I-sơ-ra-ên:

  • Có 11 thầy tế lễ thượng phẩm phục vụ trong Đền Tạm, với A-rôn là thầy tế lễ thượng phẩm đầu tiên, trong khoảng thời gian từ năm 1446 TCN đến năm 959 TCN.
  • Có 18 thầy tế lễ thượng phẩm phục vụ trong đền thờ Thiên Chúa do Vua Sa-lô-môn xây cất, còn gọi là đền thờ thứ nhất, trong khoảng thời gian từ năm 959 TCN đến năm 587 TCN.
  • Có 70 thầy tế lễ thượng phẩm phục vụ trong đền thờ Thiên Chúa do E-xơ-ra cùng Nê-hê-mi tái thiết và sau đó được Vua Hê-rốt trùng tu, còn gọi là đền thờ thứ nhì, trong khoảng thời gian từ năm 515 TCN đến năm 70.

Từ năm 70 đến nay, trong dân I-sơ-ra-ên không có một thầy tế lễ thượng phẩm nào, vì họ chưa xây dựng lại được đền thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, hiện nay, dân I-sơ-ra-ên đã sẵn sàng cho việc tái xây dựng đền thờ Thiên Chúa, còn gọi là đền thờ thứ ba. Họ đã có sẵn các vật liệu để xây cất đền thờ. Họ đã làm xong các khí cụ được dùng trong đền thờ. Họ đã huấn luyện một đội ngũ các thầy tế lễ, sẵn sàng cho sự phục vụ trong đền thờ [1].

Theo lời tiên tri trong Đa-ni-ên 9:27; 11:31, 36; 12:11; Ma-thi-ơ 24:15; II Tê-sa-lô-ni-ca 2:4 thì chúng ta hiểu rằng, đền thờ thứ ba sẽ được xây cất trước hoặc trong khi AntiChrist cầm quyền. Khi đền thờ thứ ba được xây cất xong (trong vòng sáu tháng cho đến một năm) thì dân I-sơ-ra-ên sẽ có thầy tế lễ thượng phẩm thứ 100. Vào giữa Kỳ Tận Thế, AntiChrist sẽ vào ngồi trong đền thờ, tự xưng là Thiên Chúa.

Qua Thánh Kinh chúng ta hiểu rằng, thực tế, kể từ ngày 09/04/27 theo Tây Lịch [2] là ngày Đức Chúa Jesus Christ, trong địa vị Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Đời Đời, tự dâng mạng sống của Ngài làm sinh tế chuộc tội cho toàn thể loài người, thì dân I-sơ-ra-ên không cần một thầy tế lễ thượng phẩm nào nữa. Thư Hê-bơ-rơ từ đoạn 7 đến đoạn 10 giãi bày rõ ràng về chức vụ và danh hiệu Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Đời Đời của Đấng Christ. Trong bài này, qua Hê-bơ-rơ 7:1-22, chúng ta cùng nhau học về tính cách đời đời và trọn vẹn của chức vụ thầy tế lễ của Đấng Christ.

1 Vì Mên-chi-xê-đéc đó, vua của Sa-lem, thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đã gặp Áp-ra-ham lúc ông đang quay về từ cuộc tàn sát các vua, và chúc phước cho ông.

2 Và Áp-ra-ham đã phân chia một phần mười về mọi vật cho người. Thật ra, trước hết, tên của người được giải nghĩa là Vua Công Chính, kế tiếp, Vua của Sa-lem tức là Vua Bình An.

Phao-lô nhắc lại câu chuyện Áp-ra-ham đánh thắng liên minh bốn vua, giải cứu cháu của ông là Lót, và thu về những tài vật của dân Sô-đôm đã bị bốn vua cướp đi (Sáng Thế Ký 14). Khi Áp-ra-ham đem quân trở về thì Mên-chi-xê-đéc, vua của Sa-lem và cũng là thầy tế lễ của Thiên Chúa Chí Cao, đã đem bánh và rượu ra tiếp đón, chúc phước cho Áp-ra-ham. Áp-ra-ham dâng lên Vua Mên-chi-xê-đéc một phần mười trong số chiến lợi phẩm.

Tên Mên-chi-xê-đéc có nghĩa là Vua Công Chính. Danh từ Sa-lem có nghĩa là bình an. Vì Mên-chi-xê-đéc là vua của Sa-lem nên cũng mang danh hiệu là Vua Bình An. Chức vụ, ý nghĩa của tên và danh hiệu của Mên-chi-xê-đéc tiêu biểu cho chức vụ và đặc tính của Đấng Christ:

Mên-chi-xê-đéc là vua và thầy tế lễ của Thiên Chúa Chí Cao. Đấng Christ cũng là vua và thầy tế lễ của Thiên Chúa Chí Cao.
Mên-chi-xê-đéc là Vua Công Chính và Vua Bình An. Đấng Christ cũng là Vua Công Chính và Vua Bình An
Sự kiện Áp-ra-ham dâng một phần mười chiến lợi phẩm lên Vua Mên-chi-xê-đéc có lẽ phát xuất từ việc Áp-ra-ham nhận biết và vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời:

“Bởi vì Áp-ra-ham đã vâng theo tiếng Ta, đã giữ gìn sự quy định của Ta: các điều răn của Ta, các luật lệ của Ta, các luật pháp của Ta.” (Sáng Thế Ký 26:5).

Trước đó, không một chỗ nào trong Thánh Kinh ghi lại sự kiện Đức Chúa Trời ban hành các điều răn, các luật lệ, và các luật pháp của Ngài cho Áp-ra-ham hay bất cứ ai. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin rằng, Đức Chúa Trời đã ban truyền các điều răn, các luật lệ, và các luật pháp của Ngài cho Áp-ra-ham. Không chỉ riêng Áp-ra-ham mà còn cho Gióp, cho ba người bạn của Gióp, là những người có lẽ đồng thời với Áp-ra-ham, cũng như cho bất cứ ai tin kính Ngài, kể từ A-đam, A-bên, Sết, Hê-nóc, cho đến Nô-ê. Tất cả được gọi chung là những quy định của Đức Chúa Trời, do Ngài phán truyền. Chúng ta có lý do để tin rằng, Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời và các luật lệ khác đã được Ngài phán truyền cho những ai tin kính Ngài, trước khi Ngài ban hành cho dân I-sơ-ra-ên tại Si-na-i (Xuất Ê-díp-tô Ký 20).

3 Không cha, không mẹ, không gia phả, không có những ngày bắt đầu, không có những ngày cuối cùng của đời sống, nhưng được làm giống như Con của Đức Chúa Trời, cứ tiếp tục là thầy tế lễ.

4 Hãy nghĩ xem! Người vĩ đại biết bao! Người mà chính tổ phụ Áp-ra-ham đã dâng một phần mười của chiến lợi phẩm.

Thánh Kinh không ghi lại cha mẹ và gia phả của Vua Mên-chi-xê-đéc, không ghi lại thời điểm ông được sinh ra và thời điểm ông qua đời. Từ ngữ “không gia phả” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là không có sách ghi chép về dòng dõi, con cháu.

Qua Phao-lô, Đức Thánh Linh cho chúng ta biết, Vua Mên-chi-xê-đéc được làm giống như Con của Đức Chúa Trời trong sự cứ tiếp tục làm thầy tế lễ. Giống như Con của Đức Chúa Trời tức là giống như Đấng Christ về phương diện thần tính của Ngài: không cha, không mẹ, không con cháu, không có những ngày bắt đầu, không có những ngày cuối cùng, và cứ mãi mãi là thầy tế lễ; vì Ngài là Thiên Chúa tự có và có mãi.

Trong thực tế, nếu Mên-chi-xê-đéc là một người bình thường thì đương nhiên ông phải có cha mẹ, và nếu ông kết hôn thì có thể có con cháu; cũng như đương nhiên phải có ngày sinh và ngày chết, trừ khi ông không chết nhưng được Đức Chúa Trời cất đi như Hê-nóc và Ê-li. Tuy nhiên, để làm cho ông giống như Đấng Christ về phương diện thần tính thì Thánh Kinh đã không ghi lại cha mẹ, gia phả của ông, không ghi lại những ngày bắt đầu và những ngày cuối cùng của đời sống ông.

Chúng ta cũng có thể hiểu rằng, rất có thể Vua Mên-chi-xê-đéc chính là Thiên Chúa Ngôi Lời hiện ra trong hình thể của một người (khác với nhập thế làm người), như các thiên sứ vẫn thường hiện ra trong hình dáng của loài người. Sáng Thế Ký 18 ghi lại một trường hợp đặc biệt, đáng cho chúng ta dành thời gian suy ngẫm. Đó là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu hiện ra với Áp-ra-ham qua hình dáng của ba người đàn ông. Dựa vào văn mạch (chú ý các câu 1, 2, 9, 10, 22, 33) chúng ta có thể hiểu rằng, cả ba thân vị Thiên Chúa cùng lúc hiện ra với Áp-ra-ham và cùng phán với Áp-ra-ham trong tư cách Thiên Chúa.

Câu 1 và 2 cho thấy Đấng Tự Hữu Hằng Hữu hiện ra ngay trước mặt Áp-ra-ham trong hình dáng của ba người đàn ông, chứ không phải ông nhìn thấy ba người đàn ông từ xa tiến đến gần ông.

Câu 9 cho thấy cả ba thân vị Thiên Chúa cùng hỏi Áp-ra-ham một câu hỏi về Sa-ra.

Câu 10 dùng đại danh từ “Ngài” số ít để chỉ chung ba thân vị Thiên Chúa.

Câu 22 cho thấy Đấng Tự Hữu Hằng Hữu trong hình dáng ba người đàn ông có hành động xoay người để đi về hướng thành Sô-đôm, nhưng bị Áp-ra-ham chặn lại, để cầu thay cho dân Sô-đôm.

“Các người đàn ông xoay khỏi đó, đi về hướng Sô-đôm; nhưng Áp-ra-ham vẫn đứng trước Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.” (Sáng Thế Ký 18:22).

Câu 33 cho biết Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đi khỏi, sau khi đã chấm dứt trò chuyện với Áp-ra-ham. Hành động đi khỏi đó có thể được hiểu là hình dáng của ba người đàn ông cùng lúc biến mất trước mắt Áp-ra-ham.

Chúng tôi chọn tin rằng, Vua Mên-chi-xê-đéc chính là sự hiện ra của Thiên Chúa Ngôi Lời. Vì có như vậy thì chức thầy tế lễ của Mên-chi-xê-đéc mới thật sự cứ còn mãi mãi. Chính vì thế mà Đức Thánh Linh đã phán dạy qua Phao-lô: “Hãy nghĩ xem! Người vĩ đại biết bao!”

5 Thực tế, những người thuộc con cháu của Lê-vi nhận chức thầy tế lễ, theo luật pháp, có điều răn cho phép nhận lấy một phần mười của dân. Đó là của anh chị em cùng tổ phụ của họ, vì họ cũng ra từ lòng của Áp-ra-ham.

6 Nhưng người không được kể là cùng gia tộc với họ, đã nhận một phần mười của Áp-ra-ham và chúc phước cho người có lời hứa.

Kể từ A-rôn, tất cả các thầy tế lễ trong dân I-sơ-ra-ên phải ra từ dòng dõi Lê-vi, theo sự quy định bởi luật pháp của Đức Chúa Trời. Và họ được nhận của dâng một phần mười từ dân I-sơ-ra-ên. Nhưng Mên-chi-xê-đéc không cùng một gia tộc với dân I-sơ-ra-ên. Rõ ràng là ông không có tên trong bất cứ một gia phả nào trong ba dòng con của Nô-ê. Thế nhưng, Áp-ra-ham, tổ phụ của dân I-sơ-ra-ên, người có lời hứa của Đức Chúa Trời, đã dâng một phần mười cho Mên-chi-xê-đéc và được Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho.

7 Người bậc cao chúc phước cho người bậc thấp là điều không cãi được.

Theo truyền thống của dân I-sơ-ra-ên và có lẽ cũng của mọi dân tộc khác, chỉ có người bậc cao chúc phước cho người bậc thấp. Bậc cao ở đây bao gồm giai cấp, chức vụ, địa vị trong gia đình. Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ra-ham có nghĩa là Mên-chi-xê-đéc ở địa vị cao trọng hơn Áp-ra-ham. Mà địa vị của Mên-chi-xê-đéc thật sự cao trọng hơn bất cứ địa vị nào khác trong thế gian. Đó là địa vị thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao.

8 Thực tế ở đây: Những người thu nhận một phần mười đều là những người chết; nhưng đằng kia, được làm chứng cho là người đang sống.

“Thực tế ở đây” là sự thực về những thầy tế lễ trong dân I-sơ-ra-ên đang được nói đến trong phân đoạn này. Sự thực là họ đều đã chết hay sẽ chết.

“Nhưng đằng kia” là về phía Mên-chi-xê-đéc. Mên-chi-xê-đéc được làm chứng rằng, vẫn đang sống, mặc dù từ thời Áp-ra-ham đến thời Phao-lô đã hơn hai ngàn năm trôi qua. Lời chứng đó do Vua Đa-vít được Thiên Chúa thần cảm ghi lại:

“Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đã thề, không hề đổi ý, rằng: Ngươi là thầy tế lễ mãi mãi, theo ban Mên-chi-xê-đéc.” (Thi Thiên 110:4).

Chức vụ thầy tế lễ theo ban A-rôn thì cha truyền con nối, khi thầy tế lễ qua đời. Nhưng chức vụ thầy tế lễ theo ban Mên-chi-xê-đéc thì còn đến mãi mãi, vì thầy tế lễ không chết. Chính vì thế mà chúng tôi tin rằng, Mên-chi-xê-đéc chính là sự hiện ra của Thiên Chúa Ngôi Lời.

9 Vậy, có thể nói một lời như thế này: Lê-vi, người thu nhận một phần mười cũng nộp một phần mười, qua Áp-ra-ham.

10 Vì Lê-vi vẫn còn ở bên trong hông của tổ phụ mình, khi Mên-chi-xê-đéc gặp ông ấy.

Mặc dù Lê-vi là tổ phụ của các thầy tế lễ trong dân I-sơ-ra-ên và chi phái Lê-vi được quyền nhận của dâng một phần mười từ các chi phái khác, nhưng chính Lê-vi cũng đã dâng một phần mười lên Mên-chi-xê-đéc, khi ông vẫn còn ở trong thân thể của Áp-ra-ham.

Đây là một câu Thánh Kinh rất quan trọng, liên quan đến sự di truyền. Mặc dù Lê-vi là con của Gia-cốp và Gia-cốp là cháu nội của Áp-ra-ham nhưng câu 10 xác nhận sự sống của Lê-vi đã ở trong Áp-ra-ham khi Mên-chi-xê-đéc gặp Áp-ra-ham trước đó hàng trăm năm. Nói cách khác, sự sống của mỗi chúng ta đã ở trong A-đam ngay từ ngày Thứ Sáu trong tuần lễ sáng tạo, khi Thiên Chúa dựng nên A-đam. Dù thân thể xác thịt của chúng ta chỉ mới được hình thành và được sinh ra đời cách nay chưa đầy trăm năm, nhưng sự sống của chúng ta, sự thực hữu của chúng ta đã ở trong A-đam ngay từ buổi đầu sáng thế.

11 Vậy, nếu thực tế sự trọn vẹn là bởi chức thầy tế lễ của người Lê-vi, vì dựa trên nó mà dân chúng được phê chuẩn bởi luật pháp, thì cần gì thêm một thầy tế lễ khác, lập theo ban Mên-chi-xê-đéc, mà không được gọi theo ban A-rôn?

Danh từ “sự trọn vẹn” được dùng trong câu 11, trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là sự hoàn thành một công việc, một lời hứa, một mục đích, không có sự thiếu sót hoặc sai lầm. Mục đích chính của chức vụ thầy tế lễ theo dòng Lê-vi là dâng sinh tế chuộc tội cho con dân Chúa. Dân chúng dựa trên sự dâng sinh tế của các thầy tế lễ để được luật pháp công bố là họ được tha thứ, được sạch tội. Nhưng sự dâng sinh tế chuộc tội do các thầy tế lễ dòng Lê-vi, theo ban A-rôn không trọn vẹn trong sự chuộc tội cho tội nhân. Vì thế, mỗi khi có sự phạm tội thì lại phải dâng sinh tế. Chính vì thế mà cần phải có một thầy tế lễ khác, không thuộc về dòng Lê-vi, không theo ban A-rôn, mà theo ban Mên-chi-xê-đéc.

12 Vì chức thầy tế lễ đã thay đổi thì cũng cần có sự thay đổi về luật pháp.

Khi cách thức thiết lập chức vụ thầy tế lễ đã thay đổi, thì luật pháp liên quan đến chức vụ thầy tế lễ cũng phải thay đổi. Sự thay đổi về luật pháp được nói đến ở đây không phải là sự thay đổi Mười Điều Răn hay các phương diện khác của luật pháp, như luật về vệ sinh, luật về hình sự, luật về gia đình. Điển hình, luật pháp về sự dâng sinh tế chuộc tội không còn là dâng mạng sống của một con vật, mà là dâng mạng sống của một người hoàn toàn vô tội.

13 Vì Đấng mà những lời đó phán về, thuộc một chi phái khác, trong chi phái đó không có ai dự việc nơi bàn thờ.

14 Vì hiển nhiên rằng, Chúa của chúng ta nổi lên từ Giu-đa. Về chi phái ấy, Môi-se đã không nói điều gì về chức thầy tế lễ.

Đức Chúa Jesus được sinh ra trong chi phái Giu-đa và là con cháu của Vua Đa-vít. Chi phái Giu-đa nắm giữ vương quyền nhưng không nắm giữ chức vụ thầy tế lễ, không liên quan đến các công việc phụng sự trong đền thờ. Mọi công việc phụng sự trong đền thờ là thuộc về chi phái Lê-vi. Tuy nhiên, Đức Chúa Jesus được lập làm thầy tế lễ theo ban Mên-chi-xê-đéc, không chỉ riêng cho dân I-sơ-ra-ên mà là cho toàn thể loài người. Và chức vụ thầy tế lễ của Ngài là chức vụ đời đời.

15 Điều đó càng rõ ràng hơn nữa, khi một thầy tế lễ khác được dấy lên, giống như Mên-chi-xê-đéc.

16 Ngài được lập nên không theo điều răn xác thịt, nhưng theo năng lực của sự sống vô hạn.

Nhóm chữ “điều răn xác thịt” có nghĩa là điều răn ban cho loài xác thịt. Sự Đức Chúa Jesus được lập làm thầy tế lễ mãi mãi theo ban Mên-chi-xê-đéc rõ ràng là không bởi các điều răn ban cho loài xác thịt, tức không theo các điều luật ghi trong Sách Luật Pháp của Môi-se. Ngài được lập làm thầy tế lễ bởi ý muốn và lời phán của Đức Chúa Trời, như đã được Thiên Chúa thần cảm cho Vua Đa-vít ghi lại trong Thi Thiên 110:4. Ý muốn và lời phán của Đức Chúa Trời được gọi là năng lực của sự sống vô hạn.

17 Vì Ngài [Đức Chúa Trời] làm chứng cho Ngài rằng: Ngươi là thầy tế lễ mãi mãi, theo ban Mên-chi-xê-đéc. [Thi Thiên 110:4]

Lời chứng của Đức Chúa Trời được Vua Đa-vít ghi lại trong Thi Thiên 110:4 vừa là lời chứng về sự bất tử của Vua Mên-chi-xê-đéc vừa là lời chứng về chức vụ thầy tế lễ đời đời của Đức Chúa Jesus Christ. Vì Mên-chi-xê-đéc phải không chết thì mới có thể giữ chức thầy tế lễ cho đến mãi mãi. Trong khi Đức Chúa Jesus Christ phải chịu chết, vì Ngài dâng chính mạng sống của Ngài làm sinh tế chuộc tội cho loài người, nhưng Ngài đã sống lại, nên Ngài vẫn tiếp tục giữ chức vụ thầy tế lễ. Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày trên đây, chúng tôi tin rằng Vua Mên-chi-xê-đéc cũng chính là Thiên Chúa Ngôi Lời, khi Ngài hiện ra trong hình dáng của loài người.

Nói cách khác, Thiên Chúa Ngôi Lời đã hiện ra trong hình dáng loài người, làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, với tên gọi Mên-chi-xê-đéc, giữ nhiệm vụ cầu thay và chúc phước cho con dân Chúa. Khi thời điểm đến thì Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người, vẫn giữ chức vụ thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, dâng chính mạng sống của mình làm sinh tế chuộc tội cho loài người và cầu thay cho con dân Chúa.

18 Vì thật đã xảy ra sự vô hiệu hóa điều răn [về luật thầy tế lễ] trước kia, bởi sự yếu kém và không ích lợi của nó.

Trước hết, chúng ta cần chú ý, danh từ điều răn trong câu 16 và câu 18 là danh từ số ít, chỉ về điều răn quy định việc lập thầy tế lễ như đã chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 29. Khi Đức Chúa Jesus được lập làm thầy tế lễ thì không theo điều răn ấy, nên mới nói là điều răn ấy đã bị vô hiệu hóa. Vô hiệu hóa tức là khiến cho không còn hiệu lực. Điều răn ấy chỉ lập nên những thầy tế lễ tạm thời, chính bản thân họ cũng phạm tội, và sinh tế mà họ dâng lên làm của lễ chuộc tội chỉ là mạng sống của thú vật, mang tính cách tượng trưng cho sinh tế thật là mạng sống của một người vô tội.

Nhiều người dựa vào câu 18 để cho rằng Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời đã bị vô hiệu hóa, tức là không còn áp dụng, là vì họ thiếu sự hiểu biết Lời Chúa. Họ là những người tin Chúa nhưng chưa thật lòng ăn năn tội, nên chưa có Đức Thánh Linh ngự trong họ để dẫn họ vào mọi lẽ thật của Thánh Kinh (Giăng 16:13). Tất cả những kẻ theo tà giáo đều là những người tin Chúa nhưng chưa thật lòng ăn năn tội. Họ chỉ tin Chúa theo lý trí xác thịt, vẫn còn thầm kín ưa thích tội và phạm tội, nên họ chưa có sự cứu rỗi, chưa được dựng nên mới, không có Đức Thánh Linh ngự trong họ để dạy dỗ họ và soi dẫn họ.

Sự vô hiệu hóa điều răn liên quan đến sự lập chức thầy tế lễ được nói trong câu 18 hàm ý, nội dung của điều răn ấy không được áp dụng vào sự lập chức thầy tế lễ của Đức Chúa Jesus và của tất cả con dân Chúa trong Hội Thánh. Ngày nay, mỗi chúng ta đều là một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao nhưng không theo điều răn lập chức thầy tế lễ được ghi trong Xuất Ê-díp-tô Ký 29. Chúng ta được mang chức thầy tế lễ của Đức Chúa Trời bởi chúng ta ở trong Đấng Christ, được hiệp một với Ngài, là thân thể của Ngài:

“Vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài, của thịt Ngài, và của xương Ngài.” (Ê-phê-sô 5:30).

“Nhưng các anh chị em là dòng dõi được lựa chọn, là chức thầy tế lễ của nhà vua, là dân tộc thánh, là dân thuộc về Ngài, để cho các anh chị em rao giảng sự trọn lành của Đấng đã gọi các anh chị em ra khỏi sự tối tăm, vào trong sự sáng láng lạ lùng của Ngài. [Xuất Ê-díp-tô Ký 19:5-6; Ê-sai 43:20-21; 61:6]” (I Phi-e-rơ 2:9).

“…Đức Chúa Jesus Christ, Chứng Nhân Thành Tín, con đầu lòng từ những kẻ chết, Đấng cầm quyền của các vua trên đất, Đấng yêu chúng ta và đã rửa sạch chúng ta khỏi những tội lỗi của chúng ta trong máu của Ngài, đã lập chúng ta làm những vua và những thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời và Cha của Ngài. Nguyện sự vinh quang và quyền thế thuộc về Ngài cho đến đời đời. A-men!” (Khải Huyền 1:5-6).

Rõ ràng, chức vụ thầy tế lễ được lập nên theo điều răn được ghi lại trong Sách Luật Pháp có sự yếu kém và không ích lợi.

19 Vì luật pháp không làm cho điều gì trở nên trọn vẹn, nhưng đem đến một sự trông cậy tốt hơn, bởi đó chúng ta đến gần Đức Chúa Trời.

Một người tốt là một người vâng giữ luật pháp và không bị luật pháp hình phạt. Một người xấu là một người vi phạm luật pháp và bị luật pháp hình phạt. Luật pháp chỉ giúp cho người ta nhận biết tội lỗi và cái giá phải trả khi phạm tội chứ luật pháp không khiến cho một người hay bất cứ điều gì trở nên trọn vẹn. Nếu luật pháp có thể khiến cho một người trở nên trọn vẹn thì Đức Chúa Jesus Christ không cần phải chết trên thập tự giá để chuộc tội cho loài người.

Trong luật pháp của Đức Chúa Trời có nói đến sự chuộc tội. Vì thế, luật pháp cho chúng ta một sự trông cậy về sự được chuộc tội, được tha tội, và được làm cho sạch tội. Nhờ sự được chuộc tội, được tha tội, và được làm cho sạch tội đó mà chúng ta có thể đến gần Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên, bởi ân điển và tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta mới được chuộc tội, được tha tội, được làm cho sạch tội, thoát khỏi mọi hình phạt của luật pháp, được dựng nên mới, được ban cho thánh linh của Thiên Chúa để sống đời đời hạnh phúc trong Vương Quốc Trời.

20 Ngoài ra, sự thay đổi này chẳng phải là không có lời thề mà được làm ra.

21 Những thầy tế lễ khác thực tế đã không bởi lời thề mà được lập nên, nhưng Ngài đã được lập nên với lời thề, bởi Đấng đã phán với Ngài: Chúa đã thề và sẽ không hối tiếc. Ngươi là thầy tế lễ mãi mãi theo ban Mên-chi-xê-đéc. [Thi Thiên 110:4]

“Sự thay đổi này” tức là sự thay đổi về điều răn thiết lập thầy tế lễ và cách thức phụng sự của thầy tế lễ, được làm ra bởi lời thề của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không cần phải thề! Nhưng Ngài đã dùng lời thề để cho loài người hiểu rằng, ý muốn đó của Ngài, lời hứa đó của Ngài khi thời điểm đến, chắc chắn sẽ được hoàn thành mà không ai, không một điều gì có thể ngăn cản. Và điều quan trọng hơn hết là chính Ngài sẽ không thay đổi ý muốn và lời hứa của Ngài. Trong tất cả các thầy tế lễ đã được lập nên trong dân I-sơ-ra-ên, không một người nào đã được lập nên bởi lời thề của Đức Chúa Trời. Họ đều được lập nên theo điều răn của luật pháp. Chỉ một mình Đức Chúa Jesus Christ đã được lập làm thầy tế lễ mãi mãi bởi lời thề của Đức Chúa Trời.

Bởi lời thề của Đức Chúa Trời là bởi ý muốn không hề thay đổi và chắc chắn phải hoàn thành của Đức Chúa Trời. Chính vì Đức Chúa Jesus Christ được lập làm thầy tế lễ cho đến mãi mãi bởi ý muốn không hề thay đổi và chắc chắn phải hoàn thành của Đức Chúa Trời mà sự cứu rỗi của loài người cũng được chắc chắn, trọn vẹn, cho đến mãi mãi.

22 Đức Chúa Jesus đã trở nên Đấng bảo lãnh cho một giao ước tốt hơn rất nhiều.

Vì Đức Chúa Jesus Christ là thầy tế lễ đời đời, dâng chính mạng sống của Ngài làm sinh tế chuộc tội cho loài người mà Ngài trở thành Đấng bảo lãnh cho những ai tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài trong một giao ước mới (Tân Ước), tốt hơn giao ước cũ (Cựu Ước). Cũng chính vì thế mà không có sự cứu rỗi trong ai khác:

“Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho trong loài người, để chúng ta phải được cứu trong danh ấy.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:12).

Đức Chúa Jesus Christ là Đấng Trung Bảo giữa loài người và Thiên Chúa:

“Vì có một Thiên Chúa và có một Đấng Trung Bảo của Thiên Chúa và của loài người: Người Christ Jesus!” (I Ti-mô-thê 2:5).

Trong vai trò của Đấng Trung Bảo, Ngài đứng ra bảo lãnh trước Đức Chúa Trời cho những ai thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài. Sự bảo lãnh đó là Ngài đảm nhận việc trả giá cho mọi hình phạt của tội lỗi do những người ấy làm ra. Trước chúng ta, Đức Chúa Jesus Christ cũng đứng ra bảo lãnh cho mọi lời hứa của Đức Chúa Trời. Sự bảo lãnh đó là Ngài đảm nhận việc làm cho mọi lời hứa của Đức Chúa Trời được hoàn thành cho những ai thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài.

Cảm tạ Đức Chúa Trời về sự từ ái và thành tín của Ngài. Cảm tạ Đức Chúa Jesus Christ về ân điển của Ngài đã làm nên sự cứu chuộc chúng ta. Cảm tạ Đức Thánh Linh về năng lực của Ngài trong sự thánh hóa chúng ta, ban thánh linh cho chúng ta, và dẫn chúng ta bước đi trong mọi lẽ thật.

Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Thiên Chúa bao phủ chúng ta cho đến mãi mãi. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
11/05/2019

Ghi Chú

[1] https://templeinstitute.org/

[2] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-chua-chet-va-ngay-chua-phuc-sinh/

Karaoke Thánh Ca: “Tâm Linh An Vui Thật Phước Hạnh”
https://karaokethanhca.net/tam-linh-an-vui-that-phuoc-hanh/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.
Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.