Chú Giải I Cô-rinh-tô 13:01-13 Tình Yêu

6,960 views

YouTube: https://youtu.be/J-x5OYHdyqQ

Chú Giải I Cô-rinh-tô 13:1-13
Tình Yêu

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

I Cô-rinh-tô 13:1-13

1 Dù tôi nói các thứ tiếng của loài người và của các thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi chỉ là đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng.

2 Dù tôi có sự nói tiên tri, biết hết mọi sự mầu nhiệm và mọi sự trí thức, dù tôi có hết thảy đức tin để tôi có thể dời các núi, nhưng không có tình yêu thì tôi chẳng ra gì.

3 Dù tôi nuôi ăn những người nghèo với hết thảy gia tài của tôi, dù tôi trao thân thể của mình để chịu đốt, nhưng không có tình yêu thì tôi chẳng được ích lợi gì.

4 Tình yêu khoan nhẫn; nhân từ. Tình yêu không ganh tị. Tình yêu không khoác lác; không kiêu ngạo;

5 không làm điều trái phép; không tìm kiếm chính mình; không dễ nóng giận; không suy nghĩ sự dữ;

6 không vui về điều không công bình; nhưng vui trong lẽ thật;

7 che chở mọi sự; tin mọi sự; trông cậy mọi sự; chịu đựng mọi sự.

8 Tình yêu không hề thất bại. Nhưng dù là những sự nói tiên tri, chúng sẽ qua đi; dù là những sự nói các ngôn ngữ, chúng sẽ chấm dứt; dù là sự hiểu biết, nó sẽ qua đi.

9 Vì chúng ta học biết chỉ một phần, chúng ta nói tiên tri chỉ một phần.

10 Nhưng khi sự trọn vẹn đến thì sự chỉ một phần sẽ qua đi.

11 Khi tôi còn là con trẻ, tôi đã nói như con trẻ, tôi đã hiểu biết như con trẻ, tôi đã suy nghĩ như con trẻ. Nhưng khi tôi đã thành nhân, tôi đã bỏ đi những điều thuộc về con trẻ.

12 Vì hiện nay, chúng ta nhìn qua một cái gương với sự mờ tối; nhưng rồi sẽ đến lúc mặt đối mặt. Hiện nay, tôi biết chỉ một phần; nhưng rồi sẽ đến lúc tôi biết như tôi được biết vậy.

13 Nhưng bây giờ, còn lại ba điều này: đức tin, sự trông cậy, tình yêu. Nhưng điều lớn hơn hết trong các điều ấy là tình yêu.

Một nhà văn của Mỹ, trong một tác phẩm của ông, đã nói về tình yêu như sau: “Tình yêu là khi mà hạnh phúc của người khác là quan trọng hơn của chính bạn” [1]. Câu nói đó nói lên sự nhận thức về ý nghĩa của tình yêu. Lời phán của Đức Chúa Jesus Christ, được ghi lại trong Thánh Kinh, nói lên hành động cụ thể của một người có tình yêu:

“Chẳng ai có tình yêu nào lớn hơn điều này, ấy là một người phó sự sống của mình cho các bạn hữu của mình.” (Giăng 15:13).

Có sự hiểu biết tình yêu, được yêu, và biết yêu là ba phương diện của một điều quan trọng nhất trong sự thực hữu của chúng ta, vì Đức Chúa Trời là tình yêu. Hiểu biết tình yêu là hiểu biết Đức Chúa Trời. Được yêu là được sống trong tình yêu của Đức Chúa Trời. Biết yêu là trở nên giống như Đức Chúa Trời. Chúng ta chỉ có thể hiểu biết tình yêu và nhận thức mình được yêu qua sự bày tỏ của Thánh Kinh. Chúng ta chỉ có thể biết yêu khi chúng ta tin nhận tình yêu của Đức Chúa Trời và sống trong tình yêu của Ngài. Lời Chúa dạy:

I Giăng 4:7-12

7 Hỡi các con yêu dấu, chúng ta hãy yêu lẫn nhau; vì tình yêu thuộc về Đức Chúa Trời. Người nào yêu, thì được sinh bởi Đức Chúa Trời và biết Đức Chúa Trời.

8 Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là Tình Yêu.

9 Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta đã bày tỏ ra trong điều này: Vì Đức Chúa Trời đã sai Con Một của Ngài vào trong thế gian, để qua Con ấy mà chúng ta được sống.

10 Đây là tình yêu: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội cho chúng ta.

11 Hỡi các con yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu lẫn nhau.

12 Chưa có người nào thấy Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta yêu lẫn nhau, thì Đức Chúa Trời ở trong chúng ta, và tình yêu của Ngài được trọn vẹn trong chúng ta.

Trong suốt cả Thánh Kinh, I Cô-rinh-tô đoạn 13 là một phân đoạn đặc biệt. Phân đoạn này định nghĩa tình yêu bằng cách nói lên sự cao trọng của tình yêu và liệt kê các đặc tính của tình yêu.

Danh từ “tình yêu”, ἀγάπη (G26), /agapē/, (á-ga-pê) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh là một danh từ dùng để diễn tả bản tính của Thiên Chúa, là cảm xúc tích cực của Thiên Chúa đối với muôn loài. Tình yêu cũng đã được Thiên Chúa ban cho loài người để họ có thể yêu Thiên Chúa, yêu lẫn nhau, và yêu các loài thọ tạo mà Ngài đã giao quyền cai trị cho họ.

Các triết gia Hy-lạp gọi á-ga-pê là “tình yêu thiên thượng”, là loại tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người. Đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và thông qua loài người mà đến với muôn loài. Loài người được Thiên Chúa yêu nên loài người biết yêu:

“Chúng ta yêu Ngài, vì Ngài đã yêu chúng ta trước.” (I Giăng 4:19).

Các nhà Thần học gọi á-ga-pê là “tình yêu mặc dù” hoặc “tình yêu không điều kiện”. Tình yêu mặc dù có nghĩa là dù cho đối tượng được yêu có như thế nào đi nữa, thậm chí trở thành kẻ thù nghịch, thì người yêu vẫn yêu đối tượng ấy. Tình yêu không điều kiện có nghĩa là đối tượng được yêu không cần phải đáp ứng bất cứ một điều kiện nào để được yêu.

“Vì Ðức Chúa Trời đã yêu thế gian đến nỗi Ngài đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nơi Con ấy thì không bị hư mất, mà được sự sống vĩnh cửu.” (Giăng 3:16).

“Nhưng Đức Chúa Trời thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta, như sau: Khi chúng ta còn là những người có tội thì Đấng Christ đã chết thay cho chúng ta.” (Rô-ma 5:8).

I Cô-rinh-tô 13 còn được gọi là “Bài Thánh Ca Tình Yêu” và được nhiều người ưa thích, học thuộc lòng. I Cô-rinh-tô 13 dạy cho chúng ta biết, tình yêu cao trọng hơn tất cả các ân tứ khác, tình yêu cao trọng hơn mọi sự hy sinh mà một người có thể làm ra, và tình yêu được thể hiện qua 16 đặc tính.

Từ câu 1 đến câu 3 là các giả định được đưa ra để nhấn mạnh sự cao trọng của tình yêu. Đại danh từ “tôi” được dùng trong toàn phân đoạn này không nhất thiết để chỉ Phao-lô, mà là được dùng với tính cách đại diện cho mỗi người đọc.

1 Dù tôi nói các thứ tiếng của loài người và của các thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi chỉ là đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng.

Danh từ “đồng” được dùng để chỉ các khí cụ làm bằng đồng như loa, kèn, chập chỏa…

“Chập chỏa” là hai đĩa làm bằng đồng hay bằng một kim loại khác, khi đập vào nhau thì phát ra âm thanh để đệm theo điệu nhạc.

Giả định thứ nhất là cho dù một người có ân tứ nói được tất cả các ngôn ngữ của loài người và nói được cả ngôn ngữ của các thiên sứ, nhưng nếu người ấy không có tình yêu thì người ấy chỉ là một khí cụ vô tri, vô giác, phát ra âm thanh mà thôi.

2 Dù tôi có sự nói tiên tri, biết hết mọi sự mầu nhiệm và mọi sự trí thức, dù tôi có hết thảy đức tin để tôi có thể dời các núi, nhưng không có tình yêu thì tôi chẳng ra gì.

“Có sự nói tiên tri” là được ban cho ân tứ nói tiên tri. Ân tứ nói tiên tri là ân tứ mang lại nhiều ích lợi nhất cho Hội Thánh, vì giúp cho Hội Thánh hiểu biết ý muốn của Thiên Chúa để sống theo ý muốn của Ngài.

Mọi sự mầu nhiệm là mọi lẽ thật sâu nhiệm của Thiên Chúa được giấu kín trong Thánh Kinh mà chỉ những ai được Đức Thánh Linh giãi bày mới có thể nhận thức. Thánh Kinh Cựu Ước chứa đựng những lẽ thật sâu nhiệm của Thiên Chúa mà Thánh Kinh Tân Ước đã phần nào giãi bày chung cho con dân Chúa thời Tân Ước. Tuy nhiên, vẫn có những lẽ thật sâu nhiệm trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước được Chúa ban cho một số người trong Hội Thánh sự hiểu biết chúng để truyền đạt lại cho Hội Thánh chung.

Mọi sự trí thức là mọi hiểu biết do học tập, quan sát, và suy luận.

Sự “biết hết mọi sự mầu nhiệm và mọi sự trí thức” được thể hiện qua sự nói lời của sự khôn sáng và nói lời của sự hiểu biết. Người có hai ân tứ ấy là người có sự hiểu biết sâu nhiệm về Lời Chúa và về cách thức áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống mỗi ngày.

“Có hết thảy đức tin” là có đức tin đầy dẫy và trọn vẹn nơi Thiên Chúa về mọi phương diện để có thể bởi đức tin mà làm ra các phép lạ khi cần. Đức tin cũng là một sự ban cho của Thiên Chúa, từ đức tin cơ bản vào trong sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ cho đến đức tin về sự quan phòng của Đức Chúa Trời trong đời sống, và đức tin về sự thánh hóa, dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Đức tin chỉ được ban thêm khi con dân Chúa biết áp dụng phần đức tin đã nhận lãnh vào trong cuộc sống.

“Chẳng ra gì”, theo nghĩa đen là không là gì cả, là không có giá trị.

Giả định thứ nhì là cho dù một người có đủ các ân tứ của Thiên Chúa, làm ra được các phép lạ lớn, đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, nhưng nếu người ấy không có tình yêu thì người ấy cũng chẳng có giá trị gì trước Thiên Chúa.

3 Dù tôi nuôi ăn những người nghèo với hết thảy gia tài của tôi, dù tôi trao thân thể của mình để chịu đốt, nhưng không có tình yêu thì tôi chẳng được ích lợi gì.

Động từ “nuôi ăn” (G5595) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa đen là đưa thức ăn vào miệng của một người nào.

Nhóm chữ “trao thân thể của mình để chịu đốt” hàm ý, sẵn lòng bị thiêu chết để giữ vững đức tin. Trong các cuộc Hội Thánh bị bách hại vì đức tin, nhiều con dân Chúa không chịu chối bỏ đức tin nơi Đấng Christ đã bị xử thiêu sống bởi những kẻ bách hại họ.

Giả định thứ ba là cho dù một người hy sinh toàn bộ tài sản của mình để làm lành, hoặc hy sinh mạng sống của mình vì đức tin, nhưng nếu người ấy không có tình yêu thì sự hy sinh của người ấy sẽ chẳng đem lại ích lợi gì cho người ấy. Người ấy cần phải có tình yêu đối với những người nghèo mà người ấy cứu giúp. Người ấy cần phải có tình yêu đối với Chúa khi người ấy chịu khổ và chịu chết vì danh Ngài.

Từ câu 4 đến câu 8 là 16 đặc tính của tình yêu, bao gồm bảy sự có và chín sự không:

4 Tình yêu khoan nhẫn, nhân từ. Tình yêu không ganh tị. Tình yêu không khoác lác; không kiêu ngạo;

5 không làm điều trái phép; không tìm kiếm chính mình; không dễ nóng giận; không suy nghĩ sự dữ;

6 không vui về điều không công bình; nhưng vui trong lẽ thật;

7 che chở mọi sự; tin mọi sự; trông cậy mọi sự; chịu đựng mọi sự.

8 Tình yêu không hề thất bại. Nhưng dù là những sự nói tiên tri, chúng sẽ qua đi; dù là những sự nói các ngôn ngữ, chúng sẽ chấm dứt; dù là sự hiểu biết, nó sẽ qua đi.

Bảy sự có của tình yêu: khoan nhẫn; nhân từ; vui trong lẽ thật; che chở mọi sự; tin mọi sự; trông cậy mọi sự; chịu đựng mọi sự.

  • Khoan nhẫn: Khoan nhẫn có nghĩa là khoan dung và nhẫn nại. Khoan dung là sẵn lòng tha thứ. Nhẫn nại là chịu đựng một cách bền bỉ. Người có tình yêu thì sẵn lòng tha thứ cho những kẻ xúc phạm mình, làm thiệt hại mình; chịu đựng những sự bất công gây ra cho mình; chờ đợi cho những kẻ xấu ăn năn.
  • Nhân từ: Nhân từ là lòng dịu dàng, thương xót đối với mọi người không phân biệt người nào, không kỳ thị về bất cứ phương diện nào; mong muốn những sự lành cho mọi người; khi có thể thì tận tâm cứu giúp mọi người.
  • Vui trong lẽ thật: Lẽ thật là những gì đúng với ý muốn của Chúa, được giãi bày qua Lời Chúa, vì Lời Chúa là lẽ thật và Chúa là Lẽ Thật (Giăng 14:6, 17:17, I Giăng 5:6). Vui trong lẽ thật là vui mừng trong bất cứ sự gì không nghịch lại Lời Chúa, không nghịch lại Chúa.
  • Che chở mọi sự: Động từ “che chở” (G4722) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa đen là che chở như mái nhà và có nghĩa bóng là che chở bằng sự im lặng. Người có tình yêu sẽ bằng mọi cách che chở những người yếu đuối hơn mình khỏi những sự nguy hiểm, khỏi những sự sai nghịch Lời Chúa. Người có tình yêu cũng sẽ che chở những người lỡ phạm lỗi, phạm tội bằng sự không rêu rao tội lỗi của họ, nếu họ có lòng ăn năn, thống hối. Người có tình yêu không bao giờ nhắc lại quá khứ tội lỗi của những người đã thật lòng ăn năn, từ bỏ tội. Tuy nhiên, không có nghĩa là người có tình yêu không nói cho anh chị em cùng Cha của mình biết rằng, họ đã phạm lỗi, phạm tội, không kêu gọi họ ăn năn.

“Một lời quở trách tỏ tường hơn là yêu thương giấu kín.” (Châm Ngôn 27:5).

Cũng không có nghĩa là người có tình yêu từ chối làm chứng về sự sai trái của một người trước tòa án của thế gian hay trước sự phân xử trong Hội Thánh.

  • Tin mọi sự: Không có nghĩa là tin bất cứ lời nói nào của bất cứ ai một cách mù quáng, cũng không tin vào bất cứ sự cảm xúc nào trong lòng. Mọi lời nói, mọi cảm xúc đều phải được đối chiếu với Lời Chúa. Lời Chúa dạy:

“Hỡi các con yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần trí, nhưng hãy thử cho biết các đấng thần linh có phải thuộc về Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã vào trong thế gian.” (I Giăng 4:1).

Tin mọi sự trước hết là tin mọi điều được ghi chép trong Thánh Kinh. Kế đến là tin vào sự phán đoán dựa trên Thánh Kinh của mình về mọi sự. Nói cách khác là có lòng quyết đoán về mọi sự, theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, trong thần trí của mình. Người có tình yêu là người yêu Chúa và yêu người khác bằng tình yêu của Chúa, là người không tư vị, nên người ấy có thể tin vào sự phán đoán dựa trên Lời Chúa của mình về mọi sự.

  • Trông cậy mọi sự: Là có lòng hy vọng về một kết quả tốt lành cho mọi sự. Trong đó, quan trọng nhất là lòng hy vọng về sự ăn năn của những tội nhân, sự phục thiện của những người phạm lỗi.
  • Chịu đựng mọi sự: Là vì yêu Chúa, yêu người mà có thể chịu đựng mọi nghịch cảnh, bao gồm mọi khó khăn, thử thách, bất công, thiếu thốn, hoạn nạn, bệnh tật… Nghĩa là chịu khổ theo ý Chúa để làm tôn vinh danh Chúa và để cứu giúp các anh chị em cùng Cha của mình.

“Vậy, vì Đấng Christ đã chịu khổ trong xác thịt cho chúng ta, thì các anh chị em cũng phải trang bị cho chính mình cùng một tâm trí; vì người nào cứ chịu khổ trong xác thịt, thì được dứt khỏi tội lỗi…” (I Phi-e-rơ 4:1).

“Vậy, những ai chịu khổ theo ý muốn của Đức Chúa Trời, hãy cứ làm lành mà phó linh hồn mình cho Đấng Tạo Hóa Thành Tín.” (I Phi-e-rơ 4:19).

“Nhưng Đức Chúa Trời của mọi ơn đã gọi các anh chị em đến sự vinh quang vĩnh cửu của Ngài bởi Đấng Christ Jesus, thì sau khi các anh chị em tạm chịu khổ, sẽ làm cho các anh chị em trọn vẹn, vững vàng, được thêm sức, và vững lập.” (I Phi-e-rơ 5:10).

Chín sự không của tình yêu: không ganh tị; không khoác lác; không kiêu ngạo; không làm điều trái phép; không tìm kiếm chính mình; không dễ nóng giận; không suy nghĩ sự dữ; không vui về điều không công bình; không hề thất bại.

  • Không ganh tị: Ganh tị là cái cảm giác bực tức, khó chịu, cay đắng khi thấy người khác hơn mình về một điều gì đó. Người có tình yêu sẽ không ganh tị nhưng thật lòng vui mừng cho những người có được những sự tốt lành hơn mình. Nhưng trước sự thịnh vượng của những kẻ ác thì người có tình yêu không vui mừng, cũng không ganh tị, mà chỉ cầu xin Chúa ban cho những kẻ ác cơ hội ăn năn tội và nhận biết sự cứu rỗi của Ngài; cầu xin Chúa làm thành ý muốn của Ngài trên những kẻ đó.
  • Không khoác lác: Khoác lác là khoe khoang những điều không có thực về mình để tự tôn cao, là lường gạt người khác khiến người khác hiểu sai về mình. Người có tình yêu không lừa gạt người khác bằng sự khoác lác.
  • Không kiêu ngạo: Kiêu ngạo là khoe khoang những điều hay, giỏi, tốt của mình với mục đích nâng mình lên và hạ người khác xuống; muốn mọi người phải thán phục mình, trọng vọng mình. Sự kiêu ngạo là sự giành lấy sự vinh quang của Thiên Chúa, vì mọi sự tốt lành chúng ta có đều là sự ban cho của Thiên Chúa. Người có tình yêu xác nhận những sự hay, giỏi, tốt của mình nhưng quy sự vinh quang về Thiên Chúa, nói cho mọi người biết rõ, đó là sự ban cho của Thiên Chúa.
  • Không làm điều trái phép: Điều trái phép là điều không hợp với phong tục hoặc luật pháp. Về phong tục, có những điều có thể không phạm pháp nhưng lại không hợp với phong tục địa phương. Thí dụ, không có luật pháp cấm ngoáy tai hay ngoáy mũi nơi công cộng, nhưng nhiều địa phương, như ở Mỹ, phép lịch sự không chấp nhận việc ngoáy tai hay ngoáy mũi nơi công cộng. Nếu phong tục và luật pháp nào không nghịch lại Thánh Kinh thì con dân Chúa nên vâng theo. Người có tình yêu không làm những gì gây phản cảm cho người khác.
  • Không tìm kiếm chính mình: Mệnh đề “tìm kiếm chính mình” hàm ý, chỉ biết tìm kiếm những sự ích lợi riêng cho bản thân, cùng nghĩa với ích kỷ. Người có tình yêu luôn đặt quyền lợi của người khác ngang bằng với quyền lợi của mình, vì người ấy yêu người khác như yêu chính mình. Riêng đối với anh chị em cùng Cha thì người có tình yêu sẽ đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của bản thân, vì người ấy yêu họ hơn yêu chính mình, thậm chí, có thể hy sinh mạng sống của mình cho họ (Giăng 15:13).
  • Không dễ nóng giận: Dễ nóng giận khác với nóng giận. Chính Đức Chúa Jesus Christ cũng nóng giận khi thấy người ta mua bán trong Đền Thờ Thiên Chúa. Thánh Kinh nhiều lần nói đến cơn giận của Đức Chúa Trời. Thánh Kinh cũng dạy con dân Chúa không được phạm tội trong khi giận và không được giận cho đến khi mặt trời lặn (Ê-phê-sô 4:26), tức là không được kéo dài cơn giận qua ngày mới. Theo Thánh Kinh, một ngày mới bắt đầu liền sau khi mặt trời lặn. Sự dễ nóng giận là sự lập tức nổi giận vì bất cứ điều gì nghịch lại ý muốn, quan điểm, hay tiêu chuẩn của mình mà không cần biết lý do khiến cho có sự nghịch lại đó; và cũng không cần biết ý muốn, quan điểm, tiêu chuẩn của mình có đúng với Lời Chúa hay không. Người có tình yêu thì biết cảm thông với những sự yếu đuối, thiếu sót của người khác; sẵn sàng tìm hiểu lý do vì sao ai đó làm ra điều đáng giận; luôn xem xét việc mình muốn giận đó có thật sự là sai nghịch Lời Chúa hay không; và luôn cho người làm sai có cơ hội sửa sai.
  • Không suy nghĩ sự dữ: Mặc dù sự dữ đem lại đau đớn, thiệt hại nhưng sự dữ không phải là sự ác; vì sự ác là tội lỗi, là sự nghịch lại Thiên Chúa, còn sự dữ là phương tiện Thiên Chúa dùng để sửa trị loài người. Chính Thiên Chúa sáng tạo sự dữ (Ê-sai 45:7). Không suy nghĩ sự dữ là đừng nghĩ đến những sự khốn khổ, đau thương và mong cho chúng xảy đến cho người khác. Chúng ta rất dễ bất mãn trước sự phạm tội của người khác và mong muốn kẻ phạm tội phải bị trừng trị một cách xứng đáng ngay lập tức, theo hình thức mắt đền mắt, răng đền răng. Ngoài ra, suy nghĩ sự dữ còn là không có bằng cớ mà nghi ngờ rằng, người khác phạm lỗi, phạm tội, hoặc có ác ý.
  • Không vui về điều không công bình: Điều không công bình chính là tội lỗi, là bất cứ điều gì không đúng với Lời Chúa. Mỗi một ngày trong thế gian có biết bao nhiêu điều không công bình xảy ra: người bóc lột người; người gạt gẫm người; người lợi dụng người; người áp bức người… Tất cả những điều đó đều là những điều không công bình và khó có ai vui về những điều như vậy, trừ những người làm ra những điều không công bình đó. Tuy nhiên, chúng ta rất dễ mà vui khi thấy kẻ ác bị đối xử một cách bất công. Người có tình yêu sẽ không thể nào vui trước bất cứ một sự bất công nào xảy ra cho bất cứ ai.
  • Không hề thất bại: Có nghĩa là tình yêu luôn đạt được mục đích tốt đẹp của nó. Mục đích của tình yêu là giúp cho loài người hiểu biết về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của Ngài. Mục đích của tình yêu là để khiến cho con dân của Chúa trở nên trọn vẹn giống như Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 5:48; Cô-lô-se 1:28).

Mười sáu đặc tính của tình yêu được liệt kê trong I Cô-rinh-tô 13:4-8 cũng chính là nền tảng để mỗi chúng ta xét mình, xem chúng ta đã thật có tình yêu hay chưa. Chúng ta đã được Chúa yêu. Nhưng chúng ta đã yêu Chúa và yêu người như Chúa đã yêu chúng ta hay không. Lời Chúa dạy:

“Ngươi phải hết lòng mình, hết linh hồn mình, hết sức mình mà yêu Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Thiên Chúa của ngươi.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5).

“Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: Các ngươi hãy yêu lẫn nhau. Như Ta đã yêu các ngươi thế nào thì các ngươi cũng hãy yêu lẫn nhau thế ấy.” (Giăng 13:34).

Ngay cả khi chúng ta đã có tình yêu, nếu chúng ta không nuôi dưỡng tình yêu bằng sự tha thiết tương giao với Chúa và với nhau thì chúng ta cũng có thể lui đi như con dân Chúa trong Hội Thánh tại Ê-phê-sô. Có thể chúng ta vẫn sốt sắng và chịu khổ trong sự rao giảng Tin Lành, hầu việc Chúa, vẫn nhóm hiệp với nhau vào mỗi ngày Sa-bát, nhưng tình yêu ban đầu trong chúng ta đã trở nên nguội lạnh đối với Chúa và đối với nhau (Khải Huyền 2:1-4).

9 Vì chúng ta học biết chỉ một phần, chúng ta nói tiên tri chỉ một phần.

“Chỉ một phần” có nghĩa là chỉ một phần nào của toàn bộ sự việc.

Đang khi chúng ta còn sống trong thân thể xác thịt hiện tại, chúng ta học biết nhiều bao nhiêu đi nữa thì cũng không thể nào biết được trọn vẹn những sự mầu nhiệm trong Lời Chúa và những sự biết trong thế gian. Chúng ta nói tiên tri nhiều như thế nào đi nữa thì cũng không thể nào nói hết những gì Chúa đã bày tỏ trong Lời Chúa.

10 Nhưng khi sự trọn vẹn đến thì sự chỉ một phần sẽ qua đi.

“Khi sự trọn vẹn đến” là khi thân thể xác thịt của chúng ta được phục sinh hoặc được biến hóa thành một thân thể xác thịt vinh quang, bất tử, trong ngày Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Khi đó, sự hiểu biết chỉ một phần của chúng ta sẽ qua đi, như thân thể xác thịt cũ của chúng ta. Trong thân thể xác thịt mới, chúng ta sẽ có sự hiểu biết trọn vẹn về Lời Chúa và về những sự biết trong thế gian.

11 Khi tôi còn là con trẻ, tôi đã nói như con trẻ, tôi đã hiểu biết như con trẻ, tôi đã suy nghĩ như con trẻ. Nhưng khi tôi đã thành nhân, tôi đã bỏ đi những điều thuộc về con trẻ.

Trong thân thể xác thịt của chúng ta trong đời này, khi chúng ta còn là con trẻ thì chúng ta hiểu biết như con trẻ, suy nghĩ như con trẻ, có những sự ưa thích như con trẻ, và mọi lời nói, mọi hành động như con trẻ. Khi chúng ta thật sự trưởng thành thì chúng ta không còn giữ sự hiểu biết, suy nghĩ, ưa thích, nói năng, hành động như con trẻ nữa. Trong thực tế, có một số người trưởng thành rồi mà vẫn xử sự và hành động như con trẻ. Những người đó chỉ trưởng thành về thân thể xác thịt nhưng về tình cảm và lý trí thì chưa trưởng thành.

Khi chúng ta còn sống trong thân thể xác thịt sẽ qua đi này, thì chúng ta hiểu biết và hành động một cách giới hạn, không trọn vẹn. Nhưng khi chúng ta được sống trong một thân thể xác thịt mới, vinh quang, bất tử, thì chúng ta sẽ hiểu biết trọn vẹn và hành động trọn vẹn. Bởi đó, chúng ta có thể cùng đồng trị cơ nghiệp của Đức Chúa Trời với Đấng Christ, trong Vương Quốc Ngàn Năm và trong Vương Quốc Đời Đời.

12 Vì hiện nay, chúng ta nhìn qua một cái gương với sự mờ tối; nhưng rồi sẽ đến lúc mặt đối mặt. Hiện nay, tôi biết chỉ một phần; nhưng rồi sẽ đến lúc tôi biết như tôi được biết vậy.

“Hiện nay” là khoảng thời gian mỗi người đang sống trong thân thể xác thịt hiện tại.

Danh từ “sự mờ tối” (G135) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa đen là câu nói tối nghĩa hoặc câu nói đố.

Vào thời của Phao-lô, người Hy-lạp đã biết làm những tấm gương che cửa và cửa sổ, cho phép ánh sáng từ ngoài chiếu vào bên trong nhà. Nhưng kỹ thuật thời ấy chưa tạo ra được loại gương trong suốt như chúng ta có ngày nay. Vì thế, vào thời ấy, nếu một người ở trong nhà của mình, nhìn cảnh vật bên ngoài qua một khung cửa có tấm gương bị khiếm khuyết về độ trong sáng, thì người ấy không thể nào nhìn rõ được cảnh vật. Một câu nói tối nghĩa hoặc một câu nói đố cần phải được suy nghĩ để tìm ra ý nghĩa đích thật của câu nói ấy như thế nào, thì người nhìn cảnh vật qua một tấm gương thiếu độ trong sáng cũng cần suy nghĩ để xác định những gì mà mình quan sát.

Ngày nào chúng ta còn sống trong thân thể xác thịt hiện tại, thì ngày ấy chúng ta còn chưa có sự nhận thức trọn vẹn về thế giới thuộc thể lẫn thế giới thuộc linh, vì sự hiểu biết của chúng ta bị giới hạn. Nhưng sẽ đến một lúc mà chúng ta được mặt đối mặt với Chúa trong thân thể phục sinh hoặc được biến hóa vinh quang, bất tử của chúng ta. Khi đó, sự hiểu biết của chúng ta được trọn vẹn. Khi đó, chúng ta sẽ biết Chúa như Chúa biết chúng ta, và chúng ta cũng sẽ biết toàn bộ công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng sẽ biết những sự mới lạ mỗi ngày của Thiên Chúa cho đến đời đời.

13 Nhưng bây giờ, còn lại ba điều này: đức tin, sự trông cậy, tình yêu. Nhưng điều lớn hơn hết trong các điều ấy là tình yêu.

“Bây giờ” là vào thời kỳ hiện tại.

“Còn lại” có nghĩa là có và không thay đổi.

“Đức tin” là sự tin vào Thiên Chúa và Lời của Thiên Chúa, là Thánh Kinh.

“Sự trông cậy” là sự tin vào những lời hứa của Thiên Chúa như đã được ghi lại trong Thánh Kinh và mong chờ chúng hiện thực. Sự trông cậy lớn nhất của con dân Chúa ngày nay là trông cậy vào lời hứa: Đức Chúa Jesus Christ sẽ sớm trở lại để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, trước Kỳ Tận Thế.

“Tình yêu” là những gì mà chúng ta đã học biết qua I Cô-rinh-tô đoạn 13 cùng một số phân đoạn khác trong Thánh Kinh.

Đức tin, sự trông cậy, và tình yêu là ba đặc tính của con dân Chúa trong thời kỳ hiện tại. Ba đặc tính ấy sẽ tồn tại trong mỗi con dân Chúa cho đến khi họ ra khỏi cuộc đời này. Nhưng quan trọng hơn hết là tình yêu. Vì tình yêu là bản tính của Thiên Chúa, còn lại cho đến đời đời. Trong đời sau, chúng ta không cần đức tin vì chúng ta được mặt đối mặt với Chúa và biết Chúa trọn vẹn như Chúa biết chúng ta. Trong đời sau, chúng ta không cần sự trông cậy, vì mọi lời hứa của Thiên Chúa đều được hiện thực cách trọn vẹn. Nhưng chúng ta vẫn cần được yêu và chúng ta vẫn sẽ mãi yêu, yêu Chúa lẫn yêu người khác cùng muôn loài thọ tạo của Thiên Chúa, vì chúng ta đã trọn vẹn giống Chúa, mà Chúa là tình yêu.

Cũng qua Sứ Đồ Phao-lô, Đức Thánh Linh đã dạy con dân Chúa về sự thể hiện của tình yêu trong Hội Thánh, như đã được ghi lại trong Rô-ma 12:9-13:

9 Tình yêu không giả vờ; gớm ghét sự dữ; gắn bó với sự lành;

10 yêu quý lẫn nhau bằng tình yêu anh chị em; dẫn dắt nhau với sự tôn trọng;

11 chẳng lui đi trong sự sốt sắng; tâm thần nóng cháy, phụng sự Chúa;

12 vui mừng trong sự trông cậy; kiên trì trong sự hoạn nạn; bền lòng trong sự cầu nguyện;

13 chia xẻ những sự cần dùng cho các thánh đồ; theo đuổi lòng hiếu khách.

Ý nghĩa của mấy câu này chúng ta đã cùng nhau học, khi học về thư Rô-ma. Quý ông bà anh chị em có thể đọc và nghe lại bài giảng “Chú Giải Rô-ma 12:9-21” [2].

Cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta biết tình yêu, được yêu, và biết yêu.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
30/05/2020

Ghi Chú

[1] “Love is when the other person’s happiness is more important than your own.” (H. Jackson Brown, Jr.)

[2] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-ro-ma-12_9-21/

Karaoke Thánh Ca: “Theo Chúa Jesus”
https://karaokethanhca.net/theo-chua-jesus/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net