Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL006 Gia Phả của Đấng Christ – Phần 2

662 views

YouTube: https://youtu.be/TM1apUjS3f0

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL006 Gia Phả của Đấng Christ – Phần 2
Ma-thi-ơ 1:1-17; Lu-ca 3:23-38

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Ma-thi-ơ 1:1-17

1 Gia phả của Đức Chúa Jesus Christ, con cháu của Đa-vít và con cháu của Áp-ra-ham.

2 Áp-ra-ham đã sinh I-sác. I-sác đã sinh Gia-cốp. Gia-cốp đã sinh Giu-đa và các anh em của người.

3 Giu-đa bởi Ta-ma đã sinh Phê-rết và Xê-rách. Phê-rết đã sinh Hết-rôn. Hết-rôn đã sinh Ram.

4 Ram đã sinh A-mi-na-đáp. A-mi-na-đáp đã sinh Na-ha-sôn. Na-ha-sôn đã sinh Sanh-ma.

5 Sanh-ma bởi Ra-háp đã sinh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ đã sinh Ô-bết. Ô-bết đã sinh Gie-sê.

6 Gie-sê đã sinh Vua Đa-vít. Vua Đa-vít bởi vợ của U-ri đã sinh Sa-lô-môn. [II Sa-mu-ên 11-12]

7 Sa-lô-môn đã sinh Rô-bô-am. Rô-bô-am đã sinh A-bi-gia. A-bi-gia đã sinh A-sa.

8 A-sa đã sinh Giô-sa-phát. Giô-sa-phát đã sinh Giô-ram. Giô-ram đã sinh Ô-xia.

9 Ô-xia đã sinh Giô-tam. Giô-tam đã sinh A-cha. A-cha đã sinh Ê-xê-chia.

10 Ê-xê-chia đã sinh Ma-na-se. Ma-na-se đã sinh A-môn. A-môn đã sinh Giô-si-a.

11 Giô-si-a đã sinh Giê-chô-nia và các anh em của người, vào thời điểm của sự lưu đày qua Ba-bi-lôn. [Có lẽ các bản chép tay đã chép nhầm tên Giê-hô-gia-kim với tên Giê-chô-nia. Giê-chô-nia, tức là Giê-hô-gia-kin, là con của Giê-hô-gia-kim (II Các Vua 24:6).]

12 Sau sự đày qua Ba-bi-lôn, Giê-chô-nia đã sinh Sa-la-thi-ên. Sa-la-thi-ên đã sinh Xô-rô-ba-bên.

13 Xô-rô-ba-bên đã sinh A-bi-út. A-bi-út đã sinh Ê-li-a-kim. Ê-li-a-kim đã sinh A-xô.

14 A-xô đã sinh Sa-đốc. Sa-đốc đã sinh A-chim. A-chim đã sinh Ê-li-út.

15 Ê-li-út đã sinh Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa đã sinh Ma-than. Ma-than đã sinh Gia-cốp.

16 Gia-cốp đã sinh Giô-sép, chồng của Ma-ri. Từ nàng, Đức Chúa Jesus đã được sinh ra, được gọi là Christ. [Christ có nghĩa là được xức dầu, tiêu biểu cho sự một người được đổ đầy thánh linh, tức là được Đức Chúa Trời ban cho chức vụ, thẩm quyền, và năng lực để thi hành ý muốn của Đức Chúa Trời.]

17 Vậy, hết thảy các đời: từ Áp-ra-ham cho đến Đa-vít là mười bốn đời; từ Đa-vít cho đến sự bị lưu đày qua Ba-bi-lôn là mười bốn đời; và từ sự bị lưu đày qua Ba-bi-lôn cho đến Đấng Christ là mười bốn đời.

Lu-ca 3:23-38

23 Bản thân Đức Chúa Jesus đã bắt đầu được khoảng ba mươi tuổi, theo phong tục là con trai Giô-sép, thuộc về Hê-li,

24 thuộc về Mát-tát, thuộc về Lê-vi, thuộc về Mên-chi, thuộc về Gia-nê, thuộc về Giô-sép,

25 thuộc về Ma-ta-thia, thuộc về A-mốt, thuộc về Na-hum, thuộc về Ếch-li, thuộc về Na-ghê,

26 thuộc về Ma-át, thuộc về Ma-ta-thia, thuộc về Sê-mê-in, thuộc về Giô-sép, thuộc về Giu-đa,

27 thuộc về Giô-a-nan, thuộc về Rê-sa, thuộc về Xô-rô-ba-bên, thuộc về Sa-la-thi-ên, thuộc về Nê-ri,

28 thuộc về Mên-chi, thuộc về A-đi, thuộc về Cô-sam, thuộc về En-ma-đan, thuộc về Ê-rơ,

29 thuộc về Giô-sê, thuộc về Ê-li-ê-se, thuộc về Giô-rim, thuộc về Mát-thát, thuộc về Lê-vi,

30 thuộc về Si-mê-ôn, thuộc về Giu-đa, thuộc về Giô-sép, thuộc về Giô-nam, thuộc về Ê-li-a-kim, thuộc về Mê-lê-a,

31 thuộc về Men-na, thuộc về Mát-ta-tha, thuộc về Na-than, thuộc về Đa-vít,

32 thuộc về Gie-sê, thuộc về Ô-bết, thuộc về Bô-ô, thuộc về Sanh-ma, thuộc về Na-ha-sôn,

33 thuộc về A-mi-na-đáp, thuộc về Ram, thuộc về Hết-rôn, thuộc về Phê-rết, thuộc về Giu-đa,

34 thuộc về Gia-cốp, thuộc về I-sác, thuộc về Áp-ra-ham, thuộc về Tha-rê, thuộc về Na-cô,

35 thuộc về Sê-rúc, thuộc về Rê-hu, thuộc về Bê-léc, thuộc về Hê-be, thuộc về Sê-lách,

36 thuộc về Kê-nan, thuộc về A-bác-sát, thuộc về Sem, thuộc về Nô-ê, thuộc về Lê-méc,

37 thuộc về Mê-tu-sê-la, thuộc về Hê-nóc, thuộc về Giê-rệt, thuộc về Ma-ha-la-le, thuộc về Kê-nan,

38 thuộc về Ê-nót, thuộc về Sết, thuộc về A-đam, thuộc về Đức Chúa Trời.

Trong bài này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của các câu Thánh Kinh trong hai phân đoạn ghi chép gia phả của Đức Chúa Jesus Christ.

Chúng ta bắt đầu với Ma-thi-ơ 1:1-17.

1 Gia phả của Đức Chúa Jesus Christ, con cháu của Đa-vít và con cháu của Áp-ra-ham.

Ma-thi-ơ bắt đầu cuốn sách ghi chép về Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ bằng bản gia phả của Ngài. Nói cách khác, trước khi nói về Đấng Christ thì Ma-thi-ơ muốn chứng minh Ngài chính là Đấng Christ, tức là Đấng Mê-si-a đã được Thiên Chúa hứa với dân I-sơ-ra-ên, qua các tổ phụ của họ. Danh xưng Đấng Christ trong tiếng Hy-lạp được dịch từ danh xưng Đấng Mê-si-a trong tiếng Hê-bơ-rơ; và có nghĩa là Đấng được Đức Chúa Trời xức dầu, ban cho chức vụ để phụng sự Đức Chúa Trời và phục vụ con dân của Ngài. Lời hứa ấy đã được hứa từ hơn hai ngàn năm trước và đã được ghi lại trong Thánh Kinh Cựu Ước.

Qua các lời hứa của Thiên Chúa mà chúng ta biết rằng, Đấng Christ phải là con cháu của:

  • Áp-ra-ham: “Bởi vì ngươi đã vâng theo tiếng của Ta, trong dòng dõi của ngươi, các dân tộc trên đất đều sẽ được phước.” (Sáng Thế Ký 22:18).

  • I-sác: “Thiên Chúa phán: Thật vậy! Sa-ra vợ ngươi, sẽ sinh cho ngươi một con trai, rồi ngươi đặt tên cho nó là I-sác. Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó, một giao ước đời đời với dòng dõi của nó theo sau nó.” (Sáng Thế Ký 17:19).

  • Gia-cốp: “Tôi thấy Người, nhưng chẳng phải bây giờ. Tôi xem Người, nhưng chẳng phải ở gần. Một ngôi sao hiện ra từ Gia-cốp, một quyền trượng trồi lên từ I-sơ-ra-ên. Người sẽ đâm lủng Mô-áp từ đầu này tới đầu kia, hủy diệt dân hay dấy giặc này.” (Dân Số Ký 24:17).

  • Gie-sê: “Một chồi sẽ trổ lên từ gốc của Gie-sê. Một nhánh sẽ kết quả từ những rễ của nó.” (Ê-sai 11:1).

  • Đa-vít: “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán: Này, những ngày đến, bấy giờ, Ta sẽ dấy lên cho Đa-vít một nhánh công chính. Ngài sẽ làm vua, cai trị và xử sự cách khôn sáng. Ngài sẽ thi hành sự phán xét công chính trong đất.” (Giê-rê-mi 23:5).

Ngoài lời hứa còn có các lời tiên tri về sự ra đời của Đấng Christ từ hơn 700 năm, trước khi Ngài được sinh ra. Các lời tiên tri cho chúng ta biết:

  • Đấng Christ sẽ được sinh ra trong chi phái Giu-đa: “Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, nhưng từ nơi ngươi sẽ ra cho Ta một Đấng cai trị trong I-sơ-ra-ên; gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng.” (Mi-chê 5:2).

  • Đấng Christ sẽ được sinh ra tại thành Bết-lê-hem (Mi-chê 5:2).

  • Đấng Christ sẽ được sinh ra bởi một trinh nữ: “Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Này một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sinh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.” (Ê-sai 7:14).

  • Bởi sự ra đời của Đấng Christ mà trẻ con sẽ bị giết: “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán như vầy: Tại Ra-ma nghe có tiếng than thở, khóc lóc đắng cay. Ra-chên khóc con cái mình, vì chúng nó không còn nữa!” (Giê-rê-mi 31:15).

  • Đấng Christ sẽ được cha mẹ đem sang xứ Ê-díp-tô để lánh nạn: “Khi I-sơ-ra-ên còn thơ ấu, Ta yêu dấu nó; Ta gọi con trai Ta ra khỏi Ê-díp-tô.” (Ô-sê 11:1).

Chính vì thế mà Ma-thi-ơ đã mở đầu gia phả của Đức Chúa Jesus với lời khẳng định, Ngài là “con cháu của Đa-vít và con cháu của Áp-ra-ham”. Rồi sau đó, từng hồi từng lúc, ông trưng dẫn các lời tiên tri để chứng minh chúng đã ứng nghiệm trên Đức Chúa Jesus, nên Ngài chính là Đấng Christ.

Ma-thi-ơ nêu lên sự kiện Đức Chúa Jesus là con cháu của Đa-vít để khẳng định quyền cai trị của Ngài trên ngai vua của Đa-vít. Ngài chính là vua đời đời của dân I-sơ-ra-ên, như các lời tiên tri đã báo trước. Nhưng Ngài còn có danh hiệu là “Vua của Các Vua và Chúa của Các Chúa” nên Ngài còn là vua đời đời của mọi dân tộc.

Là con cháu của Đa-vít thì đương nhiên là con cháu của Áp-ra-ham. Vì Đa-vít là con cháu của Áp-ra-ham. Nhưng Ma-thi-ơ đã nêu lên sự kiện Đức Chúa Jesus là con cháu của Áp-ra-ham là để nhắc cho dân I-sơ-ra-ên nhớ rằng, Ngài chính là Đấng mà các dân tộc sẽ được phước qua Ngài. Đó là lời Đấng Tự Hữu Hằng Hữu đã hứa và tiên tri với Áp-ra-ham (Sáng Thế Ký 22:18).

2 Áp-ra-ham đã sinh I-sác. I-sác đã sinh Gia-cốp. Gia-cốp đã sinh Giu-đa và các anh em của người.

Trong bản gia phả, Ma-thi-ơ hai lần dùng cách viết: “và các anh em của người”. Lần thứ nhất tại đây, hàm ý, nhắc đến nguồn gốc 12 chi phái I-sơ-ra-ên. Dù Đức Chúa Jesus thuộc chi phái Giu-đa nhưng Ngài có liên quan đến cả 12 chi phái I-sơ-ra-ên. Vì Ngài sẽ là vua đời đời cai trị I-sơ-ra-ên. Chính lời chúc phước và tiên tri của Gia-cốp đã cho biết, quyền cai trị I-sơ-ra-ên sẽ mãi mãi thuộc về chi phái Giu-đa:

Hỡi Giu-đa! Các anh em của con sẽ tôn vinh con. Tay của con chận trên cổ của những kẻ thù của con. Các con trai của cha của con sẽ sấp mình trước con. Giu-đa là một sư tử con. Hỡi con của ta! Con phóng lên khỏi con mồi. Nó đã phục xuống, nó đã vươn mình như sư tử. Và, như sư tử cái, ai sẽ khiến nó trỗi dậy? Quyền trượng sẽ không dời khỏi Giu-đa, sự lập pháp cũng sẽ không dứt khỏi giữa chân nó, cho tới khi Đấng Si-lô đến, và sự vâng phục của các dân sẽ thuộc về Ngài. [Si-lô có nghĩa là: Đấng mà muôn vật thuộc về Ngài, chỉ về Đấng Christ.] (Sáng Thế Ký 49:8-10).

“Quyền trượng” là cây gậy tiêu biểu cho vương quyền, tức là quyền cai trị của vua. “Sự lập pháp” là sự ban hành luật pháp theo thẩm quyền được tiêu biểu bởi quyền trượng. Chúng ta có thể hình tưởng một vị vua ngồi trên ngai, tay cầm quyền trượng, giữ cho nó đứng giữa hai chân của mình, để ra lệnh.

Gia phả được bắt đầu với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp là để nhấn mạnh đến sự kiện lời hứa của Thiên Chúa bắt đầu với Áp-ra-ham, được tái khẳng định qua I-sác và Gia-cốp. Dân I-sơ-ra-ên khi nhắc đến nguồn gốc của họ thường dùng cách nói: “các tổ phụ Áp-ra-ham, và I-sác, và Gia-cốp”.

Thánh Kinh dùng thành ngữ: “Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sác, Thiên Chúa của Gia-cốp” hoặc “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của I-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp” là để nhắc cho dân I-sơ-ra-ên luôn nhớ rằng, Ngài là Thiên Chúa và Đức Chúa Trời của ba đời tổ phụ của họ, trước khi 12 tộc trưởng của 12 chi phái I-sơ-ra-ên được sinh ra. Chẳng những Ngài là Thiên Chúa và Đức Chúa Trời của họ mà Ngài còn có mối tương giao mật thiết với từng tổ phụ của họ. Ngài đã có lời hứa với các tổ phụ của họ và Ngài sẽ hoàn thành lời hứa đó, trên chính họ; chỉ cần họ tin kính Ngài và vâng phục Ngài.

3 Giu-đa bởi Ta-ma đã sinh Phê-rết và Xê-rách. Phê-rết đã sinh Hết-rôn. Hết-rôn đã sinh Ram.

Ta-ma là con dâu của Giu-đa. Giu-đa sinh được ba con trai là: Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la. Giu-đa cưới Ta-ma cho Ê-rơ; nhưng Ê-rơ độc ác nên bị Đức Chúa Trời giết đi. Giu-đa bảo Ô-nan lấy Ta-ma để sinh con nối dõi cho anh. Nhưng Ô-nan cố ý không để cho Ta-ma thụ thai nên cũng bị Đức Chúa Trời giết đi. Giu-đa bảo Ta-ma về lại nhà cha mẹ ở góa, chờ cho Sê-la khôn lớn. Nhưng thâm ý của Giu-đa là không muốn Sê-la cưới Ta-ma, vì sợ Sê-la cũng sẽ chết như hai anh của mình.

Thời gian trôi qua, vợ của Giu-đa qua đời, và ông đã đi thăm các thợ phụ trách hớt lông chiên của ông. Khi Ta-ma hay tin về chuyến đi của Giu-đa thì bà đã che mặt, hóa trang thành một gái điếm, ngồi bên một cửa thành trên đường đi của Giu-đa. Giu-đa tưởng Ta-ma là gái điếm nên đã đề nghị quan hệ tình dục với bà. Bà hỏi ông sẽ trả cho bà điều gì. Giu-đa nói sẽ cho bà một con dê con. Bà đòi ông đưa vật chứng cho lời hứa của ông. Giu-đa đã trao cho Ta-ma: con dấu, dây, và cây gậy mà ông đang cầm nơi tay. Rồi, Giu-đa đã quan hệ tình dục với Ta-ma. Sau đó, Giu-đa đã nhờ bạn mình đem dê đến chuộc lại các vật chứng. Nhưng bạn của Giu-đa đã không tìm thấy người mà Giu-đa ngỡ là gái điếm. Dân địa phương cũng cho bạn của Giu-đa biết là tại địa phương của họ không có ai làm gái điếm.

Khoảng ba tháng sau, người ta báo với Giu-đa rằng, dâu của ông là Ta-ma, vì làm gái điếm nên đã mang thai. Giu-đa yêu cầu họ mang Ta-ma ra thiêu sống. Trong khi dân chúng đem Ta-ma ra xử tội thì bà yêu cầu họ mang các vật chứng đến gặp Giu-đa, nói cho ông biết, bà đã thụ thai bởi chủ nhân của các vật ấy. Giu-đa nhìn vật chứng thì hiểu ra, mình đã thua trí Ta-ma. Giu-đa không ăn ở với Ta-ma. Đến kỳ sinh con, Ta-ma sinh ra thai đôi, đặt tên là Phê-rết và Sê-rách (Sáng Thế Ký 38).

Cả Phê-rết và Sê-rách cùng được nêu tên ở đây, dù Đức Chúa Jesus ra từ dòng Phê-rết. Đó là vì trong lúc Ta-ma sinh con, Sê-rách đã đưa tay ra trước và được bà mụ buộc sợi chỉ đỏ vào cổ tay, nhưng Sê-rách lại rút tay vào, và Phê-rết được sinh ra trước. Điều này hàm ý, Thiên Chúa đã chọn Phê-rết.

Lý do Ma-thi-ơ ghi chú tên Ta-ma trong trường hợp này là vì đây là trường hợp bất thường, khi tổ mẫu của Đức Chúa Jesus là một phụ nữ không thuộc dân I-sơ-ra-ên. Ta-ma thuộc dân Ca-na-an.

4 Ram đã sinh A-mi-na-đáp. A-mi-na-đáp đã sinh Na-ha-sôn. Na-ha-sôn đã sinh Sanh-ma.

5 Sanh-ma bởi Ra-háp đã sinh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ đã sinh Ô-bết. Ô-bết đã sinh Gie-sê.

Chúng ta bỏ qua câu 4, như đã bỏ qua phần sau của câu 3, vì chỉ là ghi lại tên các đời mà không có chi tiết đặc biệt. Riêng trong câu 5, Ma-thi-ơ lại ghi chú về vợ của Sanh-ma là Ra-háp và vợ của Bô-ô là Ru-tơ. Lý do cũng là vì Ra-háp và Ru-tơ là hai phụ nữ không thuộc dân I-sơ-ra-ên. Ra-háp thuộc dân tộc Ca-na-an, Ru-tơ thuộc dân tộc Mô-áp.

Giô-suê đoạn 2 nói về Ra-háp. Khi dân I-sơ-ra-ên chuẩn bị tiến công thành Giê-ri-cô, Giô-suê đã sai hai thám tử vào thành để thu thập tin tức. Hai thám tử đã vào thành và trốn trong nhà của một gái điếm tên là Ra-háp. Khi quân lính do vua của Giê-ri-cô sai đi truy nã hai thám tử đến nhà của Ra-háp hỏi thăm, thì Ra-háp đã giấu hai thám tử trên mái nhà và nói dối với quân lính là họ đã ra khỏi thành. Lý do Ra-háp phản lại vua của mình và nói dối với quân lính là vì bà nhận biết, Thiên Chúa đã phó thành Giê-ri-cô vào tay dân I-sơ-ra-ên. Bà xin hai thám tử hứa với bà rằng, khi dân I-sơ-ra-ên chiếm thành thì hãy tha mạng cho gia đình bà. Giô-suê đã theo lời hứa của hai thám tử, tha mạng sống của cả gia đình Ra-háp. Về sau, Thánh Kinh cho biết, Ra-háp làm điều đó là bởi đức tin và bà được xưng công chính bởi hành động cứu hai thám tử của bà:

Bởi đức tin, người gái điếm Ra-háp không bị giết với những kẻ chẳng tin, vì nàng đã tiếp đón các người do thám với sự bình an.” (Hê-bơ-rơ 11:31).

Cũng vậy, chẳng phải người gái điếm Ra-háp đã được xưng công chính bởi các việc làm, khi nàng tiếp đón các sứ giả và khiến họ theo đường khác mà đi, hay sao?” (Gia-cơ 2:25).

Sanh-ma, chồng của Ra-háp, có lẽ là một trong hai thám tử. Và như vậy, Ra-háp là phụ nữ thứ nhì không thuộc dân I-sơ-ra-ên, trở thành một trong các tổ mẫu của Đức Chúa Jesus.

Sách Ru-tơ ghi lại câu chuyện của một gia đình I-sơ-ra-ên vào thời Các Quan Xét, vì nạn đói đã di chuyển từ Bết-lê-hem đến xứ Mô-áp. Sau đó, người chồng qua đời, để lại vợ và hai con trai. Người vợ, tên là Na-ô-mi, đã cưới hai phụ nữ Mô-áp làm vợ cho hai con trai của mình. Sau khoảng 10 năm, hai đứa con trai đều qua đời, để lại Na-ô-mi với hai con dâu. Khi Na-ô-mi nghe tin cơn đói kém đã kết thúc tại quê hương thì bà muốn quay về Bết-lê-hem. Cả hai con dâu đều muốn đi theo bà. Nhưng Na-ô-mi khuyên họ hãy quay về với cha mẹ của họ, và lấy chồng khác, vì bà không còn con trai để lấy họ làm vợ. Tuy nhiên, Ru-tơ, một trong hai con dâu, nhất quyết đi theo bà. Ru-tơ đã thưa với Na-ô-mi rằng:

…Xin chớ nài con phân rẽ người, xoay khỏi sự đi theo người! Vì người đi đâu, con sẽ đi đến đó; người ở nơi nào, con sẽ ở nơi đó. Dân sự của người là dân sự của con và Thiên Chúa của người là Thiên Chúa của con. Người qua đời nơi nào, con cũng sẽ qua đời và con sẽ được chôn nơi đó. Nguyện Đấng Tự Hữu Hằng Hữu làm cho con như vậy và còn làm nhiều hơn. Chỉ có sự chết mới phân rẽ người và con.” (Ru-tơ 1:16-17).

Na-ô-mi đã để cho Ru-tơ đi theo mình. Sau khi về đến quê hương, một người bà con gần của gia đình Na-ô-mi, tên là Bô-ô, là người có quyền chuộc lại sản nghiệp của gia đình bà theo luật, đã đứng ra, chuộc lại sản nghiệp cho gia đình bà; và nhận cưới Ru-tơ làm vợ để sinh con nối dõi cho gia tộc của chồng Na-ô-mi. Vì thế, Ru-tơ, một phụ nữ Mô-áp, đã trở thành bà nội của Vua Đa-vít. Bà là người phụ nữ thứ ba, không thuộc dân I-sơ-ra-ên nhưng trở thành một trong các tổ mẫu của Đức Chúa Jesus.

6 Gie-sê đã sinh Vua Đa-vít. Vua Đa-vít bởi vợ của U-ri đã sinh Sa-lô-môn. [II Sa-mu-ên 11-12]

Chúng ta chú ý chi tiết này, trong danh sách thứ nhì của gia phả theo Ma-thi-ơ thì cả 14 người có tên đều là vua của vương quốc Giu-đa. Nhưng Ma-thi-ơ chỉ thêm chức vua kèm theo tên của Đa-vít. Điều đó hàm ý, Ma-thi-ơ muốn nhấn mạnh đến ngai vị vua của Đa-vít khác với ngai vị vua của những người khác. Ngai vị vua của Đa-vít được chính Đức Chúa Trời hứa là sẽ còn lại đời đời. Ma-thi-ơ có ý nói rằng, Đức Chúa Jesus là người sẽ kế vị ngai vua của Đa-vít. Vì thế, ông cần thêm chức vua vào tên của Đa-vít.

Cũng trong câu này, lần thứ tư Ma-thi-ơ đã ghi chú về một trong các tổ mẫu của Đức Chúa Jesus. Đó là Bát Sê-ba, vợ của U-ri, người Hê-tít, về sau trở thành vợ của Vua Đa-vít và là mẹ ruột của Sa-lô-môn và Na-than. Lần này không phải vì Bát Sê-ba là một phụ nữ không thuộc dân I-sơ-ra-ên. Dù Bát Sê-ba lấy chồng là người Hê-tít nhưng bà thuộc dân I-sơ-ra-ên.

Ma-thi-ơ đã không nhắc đến tên của Bát Sê-ba nhưng ghi là “vợ của U-ri” là vì Vua Đa-vít đã chiếm đoạt Bát Sê-ba từ U-ri, một người lính rất trung thành của ông. Câu chuyện đoạt vợ giết chồng của Đa-vít được ghi lại cách chi tiết trong II Sa-mu-ên đoạn 11. Ma-thi-ơ muốn nhắc đến tội lỗi của Vua Đa-vít nhưng cũng đồng thời hàm ý về sự từ ái của Thiên Chúa, là Đấng sẵn lòng tha thứ cho những ai thật lòng ăn năn tội lỗi của mình. Thi Thiên 51 là một trong các Thi Thiên do Đa-vít làm ra; và là Thi Thiên nói lên lòng ăn năn thống hối của ông, sau khi phạm tội và được tiên tri của Chúa đến, chỉ tội.

Như vậy, trong gia phả của Đức Chúa Jesus, có ba phụ nữ không thuộc dân I-sơ-ra-ên là tổ mẫu của Ngài. Lại có một phụ nữ bị Vua Đa-vít chiếm đoạt cũng trở thành tổ mẫu của Ngài.

7 Sa-lô-môn đã sinh Rô-bô-am. Rô-bô-am đã sinh A-bi-gia. A-bi-gia đã sinh A-sa.

8 A-sa đã sinh Giô-sa-phát. Giô-sa-phát đã sinh Giô-ram. Giô-ram đã sinh Ô-xia.

Chúng ta bỏ qua câu 7 vì không có chi tiết đặc biệt. Câu 8 có chi tiết cần được giải thích. Từ Giô-ram đến Ô-xia có liên tiếp ba đời vua đã bị Ma-thi-ơ bỏ qua. Đó là: A-cha-xia, Giô-ách, và A-ma-xia (I Sử Ký 3:11-12). Như chúng ta đã học trong bài trước. Sự bỏ qua tên của ba đời vua này là vì sự gian ác của Hoàng Hậu A-tha-li, là mẹ của A-cha-xia, bà nội của Giô-ách, và bà cố nội của A-ma-xia. Vua Ô-xia là con cháu đời thứ tư, ra từ A-tha-li.

Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ và Hy-lạp của Thánh Kinh cũng thường dùng động từ “sinh” để nói đến việc sinh con lẫn sinh cháu, chắt nhiều đời về sau. Thí dụ, có thể nói: “Áp-ra-ham sinh I-sác” với ý nghĩa I-sác là con của Áp-ra-ham. Nhưng cũng có thể nói: “Áp-ra-ham sinh I-sác, Gia-cốp, và Giu-đa…” với ý nghĩa, Áp-ra-ham sinh I-sác, I-sác sinh Gia-cốp, và Gia-cốp sinh Giu-đa…

Một điển hình trong Thánh Kinh về việc dùng danh từ “con trai” gọi chung tất cả con cháu của một người:

Các con trai của Giu-đa là Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.” (I Sử Ký 4:1).

Trong thực tế, Phê-rết là con trai của Giu-đa; Hết-rôn là con trai của Phê-rết; Cạt-mi là con trai của Hết-rôn; Hu-rơ là con trai của Cạt-mi, và Sô-banh là con trai của Hu-rơ.

9 Ô-xia đã sinh Giô-tam. Giô-tam đã sinh A-cha. A-cha đã sinh Ê-xê-chia.

10 Ê-xê-chia đã sinh Ma-na-se. Ma-na-se đã sinh A-môn. A-môn đã sinh Giô-si-a.

11 Giô-si-a đã sinh Giê-chô-nia và các anh em của người, vào thời điểm của sự lưu đày qua Ba-bi-lôn. [Có lẽ các bản chép tay đã chép nhầm tên Giê-hô-gia-kim với tên Giê-chô-nia. Giê-chô-nia, tức là Giê-hô-gia-kin, là con của Giê-hô-gia-kim (II Các Vua 24:6).]

Chúng ta bỏ qua hai câu 9 và 10, vì chỉ là danh sách của các đời mà không có chi tiết đặc biệt.

Trong câu 11, có nghi vấn về việc ghi nhầm tên Giê-hô-gia-kim sang tên Giê-chô-nia trong các bản Tân Ước chép tay tiếng Hy-lạp. Như đã trình bày trong bài trước, Giê-chô-nia còn gọi là Giê-hô-gia-kin, là con của Giê-hô-gia-kim và Giê-hô-gia-kim là con của Giô-si-a. Vì thế, câu 11 cần được đọc như sau:

11 Giô-si-a đã sinh Giê-hô-gia-kim và các anh em của người, vào thời điểm của sự lưu đày qua Ba-bi-lôn. [II Các Vua 24:6]

Nếu bỏ qua tên của Giê-hô-gia-kim thì phần thứ ba của gia phả sẽ không có đủ 14 tên. Và cũng không có lý do gì để bỏ qua tên của Giê-hô-gia-kim, trong khi Giê-hô-gia-kim làm vua 11 năm còn Giê-chô-nia làm vua chỉ có ba tháng.

12 Sau sự đày qua Ba-bi-lôn, Giê-chô-nia đã sinh Sa-la-thi-ên. Sa-la-thi-ên đã sinh Xô-rô-ba-bên.

I Sử Ký 3:16-19 chép như sau:

16 Con trai của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia và Sê-đê-kia.

17 Con trai của Giê-chô-nia, tức người bị lưu đày, là Sa-la-thi-ên,

18 Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.

19 Con trai của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Con trai của Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia; còn Sê-lô-mít là chị em của chúng.

Có nghĩa: Phê-đa-gia là em của Sa-la-thi-ên; Xô-rô-ba-bên là con của Phê-đa-gia và là cháu của Sa-la-thi-ên.

Nhưng trong Ê-xơ-ra 3:2, 8; 5:2; Nê-hê-mi 12:1; A-ghê 1:1, 12, 14; 2:2, 23 thì ghi rõ: Xô-rô-ba-bên là con của Sa-la-thi-ên. Vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, vì Sa-la-thi-ên không có con để nối dõi nên đã nhận con của Phê-đa-gia, em của mình, làm con nối dõi. Hoặc Sa-la-thi-ên đã qua đời mà không có con nên Phê-đa-gia đã lấy góa phụ của Sa-la-thi-ên để sinh con nối dõi cho anh của mình. Xô-rô-ba-bên là con ruột của Phê-đa-gia nhưng là con theo pháp lý của Sa-la-thi-ên.

13 Xô-rô-ba-bên đã sinh A-bi-út. A-bi-út đã sinh Ê-li-a-kim. Ê-li-a-kim đã sinh A-xô.

Trong câu này, Ma-thi-ơ ghi con của Xô-rô-ba-bên là A-bi-út.

Theo I Sử Ký 3:19 thì Xô-rô-ba-bên có hai con trai là: Mê-su-lam và Ha-na-nia; có một con gái là: Sê-lô-mít. Ngoài ra, theo I Sử Ký 3:20 thì Xô-rô-ba-bên còn có thêm năm người con, có lẽ với một người vợ khác, đó là: Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, và Du-sáp Hê-vết. Trong danh sách con của Xô-rô-ba-bên theo I Sử Ký thì không thấy có tên A-bi-út. Rất có thể, A-bi-út là một tên khác của Mê-su-lam hoặc Ha-na-nia. Kể từ thời kỳ của sự lưu đày, việc một người có hai hay nhiều tên là sự bình thường trong dân I-sơ-ra-ên. Phần vì hoàn cảnh sống thay đổi nên họ tự đổi tên, phần vì những người bắt họ làm phu tù đã thay đổi tên của họ.

Có hai người tên Ê-li-a-kim được ghi trong Cựu Ước. Một người là con của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Hinh-kia, thuộc chi phái Lê-vi (II Các Vua 18:18; 22:4). Một người là con của Vua Giô-si-a, được Pha-ra-ôn của Ê-díp-tô phong làm vua của Giu-đa và đổi tên thành Giê-hô-gia-kim. Cả hai người này không thể là con của A-bi-út.

Tên A-xô cũng không có trong Cựu Ước.

14 A-xô đã sinh Sa-đốc. Sa-đốc đã sinh A-chim. A-chim đã sinh Ê-li-út.

15 Ê-li-út đã sinh Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa đã sinh Ma-than. Ma-than đã sinh Gia-cốp.

Các tên từ Sa-đốc cho đến Ê-li-út cũng không có trong Cựu Ước.

Có nhiều người mang tên Ê-lê-a-sa trong Cựu Ước nhưng đều là được sinh ra trước Ê-li-út hàng trăm năm.

Tên Ma-than cũng không có trong Cựu Ước.

Ngoài tên Gia-cốp được ghi trong Cựu Ước là tổ phụ của 12 chi phái I-sơ-ra-ên thì trong Cựu Ước không ghi lại tên của ai khác là Gia-cốp.

Chúng ta có thể hiểu rằng, từ đời Xô-rô-ba-bên cho tới Đức Chúa Jesus, Ma-thi-ơ đã ghi lại danh sách của gia phả theo các bản gia phả được các con cháu của Vua Đa-vít đăng ký với Tòa Công Luận; và được sao chép, lưu trữ bởi Tòa Công Luận.

16 Gia-cốp đã sinh Giô-sép, chồng của Ma-ri. Từ nàng, Đức Chúa Jesus đã được sinh ra, được gọi là Christ. [Christ có nghĩa là được xức dầu, tiêu biểu cho sự một người được đổ đầy thánh linh, tức là được Đức Chúa Trời ban cho chức vụ, thẩm quyền, và năng lực để thi hành ý muốn của Đức Chúa Trời.]

Câu này xác định cha ruột của Giô-sép là Gia-cốp, không phải Hê-li, như một số người diễn giải Lu-ca 3:23. Câu này cũng không ghi là Giô-sép đã sinh Đức Chúa Jesus nhưng khẳng định, từ Ma-ri, vợ của Giô-sép, mà Đức Chúa Jesus đã được sinh ra. Ma-thi-ơ sẽ đi vào chi tiết khi ghi lại sự kiện Đức Chúa Jesus được thai dựng và sinh ra.

17 Vậy, hết thảy các đời: từ Áp-ra-ham cho đến Đa-vít là mười bốn đời; từ Đa-vít cho đến sự bị lưu đày qua Ba-bi-lôn là mười bốn đời; và từ sự bị lưu đày qua Ba-bi-lôn cho đến Đấng Christ là mười bốn đời.

Nhiều người cho rằng, Ma-thi-ơ đã cố ý sắp xếp sao cho bản gia phả của Đức Chúa Jesus được chia đều thành ba phần, mỗi phần gồm 14 đời. Nhưng như chúng tôi đã trình bày trong bài trước, Ma-thi-ơ chỉ ghi lại theo tài liệu thực tế; mà phần thứ nhất và phần thứ ba của gia phả đều có 14 đời. Riêng phần thứ nhì của gia phả có 17 đời, nhưng Ma-thi-ơ đã theo sự thần cảm của Đức Thánh Linh để bỏ đi ba đời vua ra từ Hoàng Hậu A-thi-la, một nữ hoàng gian ác, bị Đức Chúa Trời phạt đến con cháu đời thứ ba. Vậy, sự sắp xếp để gia phả của Đức Chúa Jesus theo Ma-thi-ơ gồm có 14 đời là sự định trước của Đức Chúa Trời.

Tiếp theo đây, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của hai câu trong Lu-ca 3:23-38. Câu mở đầu gia phả và câu kết thúc gia phả. Vì các câu còn lại giữa hai câu đó chỉ là liệt kê tên các tổ phụ của Đức Chúa Jesus.

23 Bản thân Đức Chúa Jesus đã bắt đầu được khoảng ba mươi tuổi, theo phong tục là con trai Giô-sép, thuộc về Hê-li,

Đức Chúa Jesus đã bắt đầu được khoảng ba mươi tuổi” là nói về thời điểm Chúa bước vào mục vụ. Chúa bước vào mục vụ bằng sự chịu báp-tem vào trong sự gánh lấy hình phạt của tội lỗi cho loài người, như đã ghi trong câu 21 và 22.

Đối chiếu các chi tiết trong Thánh Kinh với các chi tiết lịch sử, chúng ta biết:

  • Đức Chúa Jesus đã chịu báp-tem không bao lâu trước ngày Lễ Vượt Qua của năm 25, là Lễ Vượt Qua mà Ngài đã vào thành Giê-ru-sa-lem và dẹp sạch Đền Thờ lần thứ nhất, được đề cập đến trong Giăng 2:13.

  • Đức Chúa Jesus đã làm phép lạ, hóa ra nhiều bánh và cá cho hơn 5.000 người ăn, trước Lễ Vượt Qua của năm 26, được đề cập đến trong Giăng 6:4.

  • Đức Chúa Jesus đã vào thành Giê-ru-sa-lem và dẹp sạch Đền Thờ lần thứ nhì, trước Lễ Vượt Qua của năm 27, được đề cập đến trong Giăng 13:1. Sau đó, Ngài đã bị đóng đinh trên thập tự giá vào ngày Lễ Vượt Qua, nhằm ngày 09/04/27 theo Tây Lịch (Julian Calendar) [1].

Như vậy, vào trước Lễ Vượt Qua của năm 25, Đức Chúa Jesus đã bắt đầu được khoảng 30 tuổi. Lễ Vượt Qua nhằm ngày 14 tháng 01 (Nisan) theo Lịch Thánh Kinh, tương đương với Lịch Do-thái, vào khoảng giữa tháng 03 đến giữa tháng 04 Tây Lịch. Đức Chúa Jesus đã được sinh ra vào cuối mùa thu, có thể vào ngày thứ nhất của Lễ Lều Trại, nhằm ngày 10 tháng 07 (Tishrei) theo Lịch Thánh Kinh, vào khoảng cuối tháng 09 đến cuối tháng 10 Tây Lịch [2]. Điều đó có nghĩa, vào khoảng tháng 10 năm 24, Đức Chúa Jesus đã tròn 30 tuổi. Vậy, Đức Chúa Jesus đã được sinh ra vào khoảng tháng 10 năm 7 TCN. Giữa năm 1 TCN và năm 1 không có năm 0. Vì thế, từ năm 7 TCN đến năm 24 là tròn 30 năm.

Mệnh đề: “theo phong tục là con trai Giô-sép” là lời ghi chú, khẳng định, Đức Chúa Jesus không phải là con ruột của Giô-sép, không mang huyết thống của Giô-sép. Và như vậy, Ngài mang huyết thống của Ma-ri và tên Ma-ri phải được hiểu ngầm trong bản gia phả.

Lu-ca 3:23 nên được đọc như sau:

23 Bản thân Đức Chúa Jesus đã bắt đầu được khoảng ba mươi tuổi, (theo phong tục là con trai Giô-sép,) thuộc về Hê-li,

Và nên được hiểu như sau: Vào lúc Đức Chúa Jesus chịu báp-tem (các câu 21-22) thì Ngài đã vào khoảng ba mươi tuổi. Ngài thuộc huyết thống của Hê-li, qua mẹ của Ngài là Ma-ri, mặc dù theo phong tục Ngài là con trai Giô-sép. Ngài cũng thuộc huyết thống của Mát-tát, của Lê-vi, của Mên-chi, của Gia-nê, v.v. (câu 24-38).

Lu-ca trình bày gia phả của Đức Chúa Jesus để chứng minh Ngài hoàn toàn là một người, ra từ dòng dõi của loài người, nhưng thuộc dòng dõi của một người nữ.

38 thuộc về Ê-nót, thuộc về Sết, thuộc về A-đam, thuộc về Đức Chúa Trời.

Mệnh đề “thuộc về Đức Chúa Trời” vừa nói đến nguồn gốc của loài người là Đức Chúa Trời, vừa hàm ý, A-đam là con của Đức Chúa Trời về phương diện sáng tạo. Toàn thể loài người thuộc dòng dõi của A-đam nên cũng là con cái của Đức Chúa Trời về phương diện sáng tạo. Thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus cũng là con cái của Đức Chúa Trời về phương diện sáng tạo, vì ra từ Ma-ri. Nhưng thân thể của Đức Chúa Jesus cũng là con cái của Đức Chúa Trời về phương diện được sinh ra. Vì Ngài đã được Đức Chúa Trời sinh ra trong lòng trinh nữ Ma-ri. Vì thế, Thánh Kinh gọi Ngài là Con Một của Đức Chúa Trời; rồi sau đó, gọi Ngài là Con Đầu Lòng, khi Đức Chúa Trời đã tái sinh nhiều người vào địa vị làm những con trai và những con gái của Ngài.

Hai bản gia phả của Đức Chúa Jesus đã bổ sung cho nhau, giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn vẹn về sự kiện Đức Chúa Jesus thật sự là loài người, thuộc dòng dõi của Áp-ra-ham và của Đa-vít, là Đấng Cứu Rỗi của nhân loại đã được Thiên Chúa hứa từ hơn hai ngàn năm, trước khi Ngài bước vào cuộc đời. Ngài cũng là Đấng sau khoảng hai ngàn năm chịu chết trên thập tự giá, hoàn thành sự cứu chuộc loài người, sẽ trở lại, đem Hội Thánh của Ngài, là tập thể của những người thật lòng ăn năn tội, tin nhận sự cứu rỗi của Ngài, và sống theo Lời Ngài, vào trong thiên đàng với Ngài, trước khi mở ra Kỳ Tận Thế. Rồi khoảng bảy năm sau đó, Ngài và Hội Thánh cùng các thiên sứ sẽ giáng lâm trên đất để kết thúc Kỳ Tận Thế và thiết lập Vương Quốc Ngàn Năm.

Cảm tạ Chúa vì tên của mỗi chúng ta đã được ghi vào trong Sách Sự Sống, và tên của mỗi chúng ta cũng sẽ được ghi vào trong gia phả của Đức Chúa Jesus Christ, trong ngày thân thể xác thịt của chúng ta được tái sinh vào trong gia đình của Đức Chúa Trời.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
17/09/2022

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf!

[1] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-chua-chet-va-ngay-chua-phuc-sinh/

[2] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-sinh-cua-duc-chua-jesus/

Karaoke Thánh Ca: “Tình Jesus Yêu Tôi”
https://karaokethanhca.net/tinh-jesus-yeu-toi-2/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.