Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL063 Dấu Lạ của Giô-na – Mẹ và Các Em của Đức Chúa Jesus

86 views

YouTube: https://youtu.be/iv0pK3Gm0vI

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL063 Dấu Lạ của Giô-na –
Mẹ và Các Em của Đức Chúa Jesus
Ma-thi-ơ 12:38-50; Mác 3:31-35; Lu-ca 8:19-21; 11:24-36

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Ma-thi-ơ 12:38-50

38 Bấy giờ có mấy thầy thông giáo kia và mấy người Pha-ri-si đáp rằng: Thưa thầy, chúng tôi muốn xem một dấu lạ từ Ngài.

39 Ngài đã đáp lời họ rằng: Một thế hệ dữ và gian dâm hỏi xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào được ban cho nó, ngoài dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.

40 Vì như Giô-na đã ba ngày và ba đêm ở trong bụng cá lớn, thì Con Người cũng sẽ ba ngày và ba đêm ở trong lòng đất. [Giô-na 1:17]

41 Những người Ni-ni-ve sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội nó. Vì họ đã ăn năn trước lời rao giảng của Giô-na. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Giô-na!

42 Nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội nó. Vì người đã đến từ các nơi cực xa của trái đất để nghe sự khôn sáng của Sa-lô-môn. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Sa-lô-môn!

43 Khi tà linh đã đi ra khỏi một người, nó đi qua những nơi khô khan, tìm chỗ nghỉ, nhưng tìm không được.

44 Bấy giờ, nó nói: Ta sẽ quay về, vào trong nhà của ta, nơi ta đã đi ra. Khi nó đến, thấy nhà trống, đã được quét sạch và đã được sắp xếp.

45 Thì nó đi, đem về với nó bảy linh khác dữ hơn nó. Chúng cùng vào và ở đó. Sự sau cùng của người ấy lại xấu hơn trước. Cũng sẽ là như vậy cho thế hệ dữ này.

46 Khi Ngài còn phán với dân chúng, kìa, mẹ và các em của Ngài đã đến, đứng bên ngoài, họ muốn nói với Ngài.

47 Có người đã thưa với Ngài: Kìa, mẹ của Ngài và các em của Ngài đứng bên ngoài, họ muốn nói với Ngài.

48 Ngài đã đáp lời, phán với người đã thưa với Ngài: Ai là mẹ của Ta? Ai là các em của Ta?

49 Ngài đã đưa tay của Ngài, hướng về các môn đồ của Ngài, mà phán: Này là mẹ của Ta và các em của Ta!

50 Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời, thì người ấy là em trai, em gái, và mẹ của Ta.

Mác 3:31-35

31 Rồi, các em và mẹ của Ngài đã đến, đứng bên ngoài, đã sai người đến với Ngài, gọi Ngài.

32 Đám đông vẫn ngồi chung quanh Ngài. Họ đã thưa với Ngài: Kìa, mẹ của Ngài và các em của Ngài ở bên ngoài, họ tìm Ngài.

33 Nhưng Ngài đã đáp lời họ rằng: Ai là mẹ của Ta? Ai là các em của Ta?

34 Ngài đã nhìn những người ngồi chung quanh mình mà phán: Này, mẹ của Ta và các em của Ta!

35 Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì người ấy là em trai của Ta, em gái của Ta, và mẹ của Ta.

Lu-ca 8:19-21

19 Mẹ và các em của Ngài đã đến với Ngài. Họ đã không thể gặp Ngài vì sự chen lấn.

20 Có người đã báo cho Ngài rằng: Mẹ của Ngài và các em của Ngài đứng bên ngoài, họ muốn gặp Ngài.

21 Nhưng Ngài đã đáp lời, phán với họ: Mẹ của Ta và các em của Ta là những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và làm theo đó.

Lu-ca 11:24-36

24 Khi tà linh đã ra khỏi một người, nó đi qua những nơi khô khan, tìm chỗ nghỉ. Tìm không được, nó nói: Ta sẽ trở về trong nhà ta, nơi ta đã ra khỏi.

25 Nó đến, thấy nhà đã được quét sạch và đã được sắp xếp.

26 Khi ấy, nó đi và đem về bảy linh khác dữ hơn nó. Chúng vào và ở đó. Lúc sau của người ấy là khốn khổ hơn lúc trước.

27 Đã xảy ra, trong khi Ngài phán các lời ấy, một người đàn bà kia, từ đám đông, cất tiếng thưa với Ngài: Phước cho tử cung đã mang Ngài và vú đã cho Ngài bú!

28 Nhưng Ngài đã phán: Những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và giữ nó còn có phước hơn!

29 Khi các đám đông đã nhóm lại với nhau, Ngài đã bắt đầu phán: Đây là một thế hệ dữ. Họ xin một dấu lạ, nhưng sẽ không có dấu lạ nào được ban cho chúng, ngoại trừ dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.

30 Vì như Giô-na đã là dấu lạ cho người Ni-ni-ve, thì cũng một thể ấy, Con Người sẽ là dấu lạ cho thế hệ này.

31 Nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với những người của thế hệ này mà định tội họ. Vì người đã đến từ các nơi cực xa của trái đất để nghe sự khôn sáng của Sa-lô-môn. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Sa-lô-môn!

32 Những người Ni-ni-ve sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội họ. Vì họ đã ăn năn bởi sự rao giảng của Giô-na. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Giô-na.

33 Không ai đã thắp đèn mà đặt tại chỗ khuất hay phía dưới thùng, nhưng đặt trên chân đèn, để những ai vào thì thấy ánh sáng.

34 Đèn của thân thể là mắt. Vậy, khi mắt của ngươi là sáng, cả thân thể của ngươi cũng được sáng láng; nhưng khi mắt của ngươi là xấu, thân thể của ngươi cũng đầy sự tối tăm.

35 Vậy, hãy coi chừng, để sự sáng trong ngươi không là sự tối tăm.

36 Vậy, nếu cả thân thể của ngươi sáng láng, không có phần nào tối tăm, thì sẽ được sáng hết thảy, như khi ánh sáng của đèn chiếu sáng cho ngươi.

Trong bài này, chúng ta tiếp tục học về một số lời phán dạy của Đức Chúa Jesus Christ. Nơi Chúa phán dạy những lời này có lẽ là tại căn nhà trọ của Ngài, tại thành Ca-bê-na-um.

Ma-thi-ơ 12:38-39

38 Bấy giờ có mấy thầy thông giáo kia và mấy người Pha-ri-si đáp rằng: Thưa thầy, chúng tôi muốn xem một dấu lạ từ Ngài.

39 Ngài đã đáp lời họ rằng: Một thế hệ dữ và gian dâm hỏi xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào được ban cho nó, ngoài dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.

Lu-ca 11:29-30

29 Khi các đám đông đã nhóm lại với nhau, Ngài đã bắt đầu phán: Đây là một thế hệ dữ. Họ xin một dấu lạ, nhưng sẽ không có dấu lạ nào được ban cho chúng, ngoại trừ dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.

30 Vì như Giô-na đã là dấu lạ cho người Ni-ni-ve, thì cũng một thể ấy, Con Người sẽ là dấu lạ cho thế hệ này.

Ma-thi-ơ nói rõ, có mấy thầy thông giáo và mấy người Pha-ri-si xin Đức Chúa Jesus làm dấu lạ. Trong khi đó, Lu-ca 11:14-16 ghi là vài kẻ trong đám đông. Lu-ca 11:29 cũng ghi thêm chi tiết là Đức Chúa Jesus đã trả lời yêu cầu ấy, khi các đám đông đã nhóm lại với nhau. Có lẽ lúc này đây, ngoài những người Pha-ri-si và những thầy thông giáo được dân chúng nhường chỗ cho họ vào trong nhà, các đám dân đông đã nhóm lại bên ngoài nhà trọ của Chúa. Chúng tôi nghĩ rằng, nhà trọ của Đức Chúa Jesus tại thành Ca-bê-na-um chính là nhà của Sứ Đồ Phi-e-rơ. Danh từ số nhiều “các đám đông” hàm ý, các đoàn dân đến từ các địa phương khác nhau.

Đức Chúa Jesus đã gọi thế hệ I-sơ-ra-ên vào lúc bấy giờ là thế hệ dữ và gian dâm. Tính từ “dữ” (G4190) được dùng để chỉ phẩm chất tốt ban đầu đã bị băng hoại, trở thành không còn lương thiện. Danh từ “gian dâm” (G3428) được dùng trong lời phán của Đức Chúa Jesus để chỉ sự con dân Chúa không trung tín với Thiên Chúa. Có nghĩa là không sống theo Lời của Thiên Chúa, không có đức tin nơi Thiên Chúa.

Vào thời ấy, người I-sơ-ra-ên vẫn có Đền Thờ Thiên Chúa và họ vẫn sốt sắng dâng hiến, nhóm hiệp, thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Thậm chí, có những người biệt riêng để sống nếp sống phụng sự Thiên Chúa như những người Pha-ri-si [1]. Nhưng Đức Chúa Jesus đã gọi những người I-sơ-ra-ên vào thời của Ngài là thế hệ dữ và gian dâm. Vì họ chỉ thờ phượng Chúa trên môi miệng và theo hình thức bên ngoài. Lòng của họ cách xa Thiên Chúa và chỉ chăm về những sự tham muốn của xác thịt (Ma-thi-ơ 15:7-9; Mác 7:6-7). Chính thế hệ ấy đã chối bỏ Ngài, giao Ngài cho người La-mã đóng đinh Ngài tới chết trên thập tự giá. Họ muốn xin dấu lạ từ Ngài để chứng minh Ngài là Đấng Mê-si-a, tức Đấng Christ, đã được hứa trong Thánh Kinh. Trong khi Ngài đã làm ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai trước mắt họ, qua sự chữa lành đủ mọi tật bệnh, đuổi những quỷ, và rao giảng Tin Lành cho những người khó nghèo (Ê-sai 35:4-6). Lời yêu cầu của họ chỉ tỏ ra là họ cứng lòng. Vì thế, sẽ chẳng có một dấu lạ nào khác ban cho họ, ngoài dấu lạ lớn nhất trong mọi thời đại, là sự phục sinh của Đức Chúa Jesus Christ, và Ngài gọi đó là dấu lạ của Giô-na.

Gọi là dấu lạ của Giô-na vì Đức Chúa Trời đã dùng sự kiện Giô-na ở trong bụng cá lớn suốt ba ngày và ba đêm tiêu biểu cho sự chết và sự phục sinh của Đức Chúa Jesus Christ. Sự Giô-na bị chôn trong biển suốt ba ngày và ba đêm là dấu lạ kêu gọi dân Ni-ni-ve ăn năn. Sự Đấng Christ bị chôn trong đất suốt ba ngày và ba đêm là dấu lạ kêu gọi dân I-sơ-ra-ên vào thời của Đức Chúa Jesus, và sau này là muôn dân trên đất, vào trong sự ăn năn.

Ma-thi-ơ 12:40

40 Vì như Giô-na đã ba ngày và ba đêm ở trong bụng cá lớn, thì Con Người cũng sẽ ba ngày và ba đêm ở trong lòng đất. [Giô-na 1:17]

Tiên Tri Giô-na phạm tội không vâng phục Thiên Chúa, bị ném xuống biển và bị một con cá lớn nuốt lấy. Giô-na đã ở trong bụng cá suốt ba ngày và ba đêm. Đức Chúa Jesus không phạm tội nhưng vì loài người không vâng phục Thiên Chúa mà Ngài đã gánh thay án phạt dành cho họ. Ngài đã bị đóng đinh cho tới chết trên thập tự giá, được chôn trong lòng đất suốt ba ngày và ba đêm, trước khi Ngài sống lại.

Khoảng thời gian ba ngày và ba đêm là cần thiết để chứng minh một người đã thật sự chết. Người I-sơ-ra-ên theo truyền thống tin rằng, một người thật sự chết, sau ba ngày. Họ tin rằng, không thể có chuyện một người đã chết sau ba ngày mà có thể sống lại. Đó cũng là lý do mà Đức Chúa Jesus đã chờ cho tới ngày thứ tư, sau khi La-xa-rơ chết, Ngài mới đến và gọi ông sống lại (Giăng 11:39).

Lời phán của Đức Chúa Jesus được ghi lại trong Ma-thi-ơ 12:40 khẳng định, Ngài phải ở trong lòng đất ba ngày và ba đêm. Và như vậy, truyền thống của các giáo hội mang danh Chúa dạy rằng, Ngài chết vào chiều Thứ Sáu và phục sinh vào sáng sớm Chủ Nhật là hoàn toàn nghịch lại lời phán của chính Ngài. Từ buổi chiều Thứ Sáu cho tới sáng sớm Chủ Nhật chỉ có hai đêm và một ngày: đêm Thứ Sáu và đêm Thứ Bảy cùng với ngày Thứ Bảy. Theo các chi tiết trong Thánh Kinh và theo lịch sử La-mã thì Đức Chúa Jesus đã thực sự ở trong mồ mả trọn ba ngày và ba đêm. Xin quý ông bà, anh chị em đọc bài “Ngày Chúa Chết và Ngày Chúa Phục Sinh” đã được chúng tôi đăng trên khu mạng timhieutinlanh.com/thanhoc [2].

Ma-thi-ơ 12:41-42

41 Những người Ni-ni-ve sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội nó. Vì họ đã ăn năn trước lời rao giảng của Giô-na. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Giô-na!

42 Nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội nó. Vì người đã đến từ các nơi cực xa của trái đất để nghe sự khôn sáng của Sa-lô-môn. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Sa-lô-môn!

Lu-ca 11:31-32

31 Nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với những người của thế hệ này mà định tội họ. Vì người đã đến từ các nơi cực xa của trái đất để nghe sự khôn sáng của Sa-lô-môn. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Sa-lô-môn!

32 Những người Ni-ni-ve sẽ đứng dậy trong ngày phán xét với thế hệ này mà định tội họ. Vì họ đã ăn năn bởi sự rao giảng của Giô-na. Và này, tại đây có Đấng lớn hơn Giô-na.

Ngày phán xét” là “ngày phán xét chung cuộc”, như đã được tiên tri trong Khải Huyền 20:11-15. Trong ngày đó, những người không ở trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ bị xét xử tùy theo mỗi việc đã làm trong đời này. Trong cuộc phán xử đó, nhiều chứng nhân là những người ở trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ đứng ra, làm chứng, và được ban cho quyền định tội những kẻ phạm tội mà không ăn năn, không tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Trong ngày đó, những tội nhân sẽ thấy rằng, chẳng những những người quen biết mình, cùng với những người từng là nạn nhân của mình, mà cả những người sống cách xa mình hàng ngàn năm cũng sẽ là chứng nhân định tội mình.

Nữ hoàng nam phương được gọi là Nữ Hoàng Sê-ba trong Cựu Ước (I Các Vua 10; II Sử Ký 9). Theo sử liệu thì bà là nữ hoàng cai trị vương quốc Sê-ba ở phía nam của bán đảo Ả-rập. Có thể vương quốc Sê-ba là Yemen ngày nay và khi ấy, vương quốc Sê-ba bao gồm một phần của Ê-thi-ô-bi. Nữ hoàng nam phương sẽ là người đứng ra định tội thế hệ I-sơ-ra-ên trong thời của Đức Chúa Jesus. Vì họ đã không tìm kiếm Ngài, Đấng khôn sáng hơn Vua Sa-lô-môn.

Tương tự như vậy, những người Ni-ni-ve nghe lời rao giảng của Tiên Tri Giô-na biết xé áo, khóc lóc, ăn năn sẽ đứng ra định tội thế hệ I-sơ-ra-ên trong thời của Đức Chúa Jesus. Vì họ đã không nghe theo Ngài, Đấng tiên tri lớn hơn Tiên Tri Giô-na, mà ăn năn.

Chúng ta thấy, Ma-thi-ơ nói đến dân thành Ni-ni-ve trước nữ hoàng nam phương; còn Lu-ca thì nói đến nữ hoàng nam phương trước dân thành Ni-ni-ve. Có lẽ Ma-thi-ơ đã ghi đúng theo thứ tự lời phán của Chúa, vì ông có mặt bên cạnh Chúa. Còn Lu-ca thì ghi lại theo lời kể của người khác nên Lu-ca đã ghi theo thứ tự của sự việc trong lịch sử, theo thói quen của ông. Thời Vua Sa-lô-môn xảy ra trước thời Giô-na. Chi tiết nhỏ này giúp cho chúng ta hiểu, những người được Đức Thánh Linh thần cảm cho ghi chép Thánh Kinh vẫn được viết theo cá tính, theo văn phong của họ, miễn là nội dung sự ghi chép của họ là trung thực.

Ma-thi-ơ 12:43-45

43 Khi tà linh đã đi ra khỏi một người, nó đi qua những nơi khô khan, tìm chỗ nghỉ, nhưng tìm không được.

44 Bấy giờ, nó nói: Ta sẽ quay về, vào trong nhà của ta, nơi ta đã đi ra. Khi nó đến, thấy nhà trống, đã được quét sạch và đã được sắp xếp.

45 Thì nó đi, đem về với nó bảy linh khác dữ hơn nó. Chúng cùng vào và ở đó. Sự sau cùng của người ấy lại xấu hơn trước. Cũng sẽ là như vậy cho thế hệ dữ này.

Lu-ca 11:24-26

24 Khi tà linh đã ra khỏi một người, nó đi qua những nơi khô khan, tìm chỗ nghỉ. Tìm không được, nó nói: Ta sẽ trở về trong nhà ta, nơi ta đã ra khỏi.

25 Nó đến, thấy nhà đã được quét sạch và đã được sắp xếp.

26 Khi ấy, nó đi và đem về bảy linh khác dữ hơn nó. Chúng vào và ở đó. Lúc sau của người ấy là khốn khổ hơn lúc trước.

Đức Chúa Jesus đã dùng một ngụ ngôn về sự tà linh tái ám nhập một người để nói về tình trạng thuộc linh của dân I-sơ-ra-ên. Và như thường xảy ra, chúng ta thấy, Ma-thi-ơ ghi lại lời phán của Chúa áp dụng cho dân I-sơ-ra-ên. Vì Ma-thi-ơ là người trực tiếp nghe Chúa phán và ông thường quan tâm đến những lời phán có liên quan dân I-sơ-ra-ên. Nhưng Lu-ca thì không. Có lẽ vì Lu-ca không được nghe thuật lại câu áp dụng đó.

Danh từ “tà linh” (G169) (G4151) có nghĩa là linh ô uế, được dùng để gọi những thiên sứ phạm tội, còn gọi là ma quỷ. Tà hay ô uế là vì cố ý phạm tội và quyết không ăn năn.

Tà linh đi ra khỏi một người là vì người ấy được Chúa giúp đuổi tà linh. Đây là sự kiện thường xuyên xảy ra trong linh vụ của Đức Chúa Jesus Christ.

Những nơi khô khan” là những khu vực đồng vắng, thiếu nước, không có người sinh sống. Người I-sơ-ra-ên tin rằng, ma quỷ ở những nơi như vậy. Khải Huyền 18:2 cũng xác nhận, tà linh cư trú ở những nơi hoang vắng.

Tìm chỗ nghỉ” là tìm người để nhập vào. Thật lạ lùng, khi Đức Chúa Jesus dạy rằng, tà linh tìm được sự yên nghỉ, khi chúng nhập vào một người. Chúng ta khó mà hiểu rằng, tà linh được yên nghỉ như thế nào, khi chúng nhập vào một người. Danh từ “sự yên nghỉ” (G372) còn có nghĩa là nghỉ ngơi khỏi những hoạt động khác để giải trí. Có lẽ sự yên nghỉ của tà linh trong thân thể của một người là nó được thoát khỏi sự buồn chán, lang thang trên đất, nhờ vào thân xác của loài người để tương tác với thế giới vật chất, kinh nghiệm những cảm nhận trong thế giới vật chất mà các thần linh ngoài Thiên Chúa không thể cảm nhận. Và cũng thật là lạ lùng, khi cùng lúc, nhiều tà linh có thể nhập vào một người.

Nhà của ta”, tà linh gọi thân thể xác thịt của một người là nhà và nó có thể vào ra thân thể ấy. Thực tế, Thánh Kinh cũng gọi thân thể xác thịt của loài người là “nhà” hay “lều trại” (II Cô-rinh-tô 5:1-4; II Phi-e-rơ 1:13-14). Thân thể xác thịt của con dân Chúa là Đền Thờ của Thiên Chúa, là nhà của Thiên Chúa, vì được chính Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh ngự vào (I Cô-rinh-tô 3:9, 16; 6:19; II Cô-rinh-tô 6:16).

Nhà trống” là thân thể xác thịt của một người không thuộc về Chúa, không có Đấng Thần Linh ngự vào. Người được Chúa đuổi quỷ cho mà không tin nhận Chúa thì người ấy là căn nhà trống, đối với ma quỷ.

Nhà đã được quét sạch và đã được sắp xếp” có nghĩa là đời sống của người đã được đuổi quỷ không còn bị tà linh tác động nên đã được sạch khỏi những việc làm ô uế của tà linh, khi nó hành động qua người ấy. Và người ấy đã sắp xếp lại nếp sống của mình.

Bảy linh khác dữ hơn nó”, mặc dù con số bảy tiêu biểu cho sự đầy đủ hay trọn vẹn về thuộc linh nhưng trong lời phán của Chúa, có lẽ chỉ có nghĩa đen là bảy tà linh. Qua lời phán của Chúa chúng ta cũng được biết rằng, có tà linh này dữ hơn tà linh kia. Thực tế, tất cả những tà linh dám tự ý ám nhập vào loài người đều là những tà linh rất dữ. Chúng bất chấp sẽ bị hình phạt nặng hơn, khi làm như vậy. Vì chỉ khi chúng nhập vào thân thể xác thịt của loài người thì chúng mới có thể cảm nhận đầy đủ về thế giới vật chất, và có thể làm ra những việc dữ trong thế giới vật chất.

Sự sau cùng của người ấy lại xấu hơn trước” hay “lúc sau của người ấy là khốn khổ hơn lúc trước” là vì trước đó, người ấy chỉ bị một tà linh ám nhập, còn giờ đây, lại bị đến tám tà linh ám nhập. Mà bảy tà linh đến sau lại dữ hơn tà linh đến trước.

Cũng sẽ là như vậy cho thế hệ dữ này” là lời tiên tri của Đức Chúa Jesus dành cho những người I-sơ-ra-ên vào thời ấy. Lời ấy vừa áp dụng theo nghĩa đen cho những người đã được Chúa đuổi quỷ, trong suốt khoảng thời gian Ngài thi hành linh vụ; nhưng cũng áp dụng theo nghĩa bóng cho toàn dân I-sơ-ra-ên vào lúc ấy. Họ đã được Đấng Christ đến, rao giảng lẽ thật, giải phóng họ khỏi sự tối tăm, ngu dốt thuộc linh. Nhưng nếu họ không tiếp nhận Ngài thì ma quỷ sẽ trở lại, bắt phục họ trong thần trí gấp bảy lần hơn. Họ sẽ càng cứng lòng càng hơn, làm ra những sự phạm thượng, chống nghịch Thiên Chúa càng hơn. Họ sẽ gánh lấy hậu quả nặng nề càng hơn.

Thực tế, thế hệ dân I-sơ-ra-ên vào lúc ấy đã từ chối Đấng Christ, giao nộp Ngài cho người La-mã đóng đinh Ngài trên thập tự giá cho tới chết, vào ngày Lễ Vượt Qua năm 27. Đức Chúa Trời đã dành cho họ 40 năm để ăn năn nhưng họ đã không ăn năn. Vào năm 67, Đức Chúa Trời đã cho phép dân La-mã bắt đầu tiến hành cuộc chiến chống lại dân I-sơ-ra-ên, và cho họ thêm thời gian ba năm để ăn năn [3]. Nhưng họ đã không ăn năn mà cậy vào sức riêng của mình để chống lại quân lính La-mã. Cuộc chiến ấy dẫn đến sự thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ Thiên Chúa bị phá hủy vào năm 70; hàng triệu người I-sơ-ra-ên đã bị giết, và dân I-sơ-ra-ên bị tản lạc khắp nơi trên đất [4].

Lu-ca 11:27-28

27 Đã xảy ra, trong khi Ngài phán các lời ấy, một người đàn bà kia, từ đám đông, cất tiếng thưa với Ngài: Phước cho tử cung đã mang Ngài và vú đã cho Ngài bú!

28 Nhưng Ngài đã phán: Những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và giữ nó còn có phước hơn!

Trong khi Đức Chúa Jesus từ chối làm dấu lạ theo yêu cầu của những thầy thông giáo và những người Pha-ri-si, nhưng nói ngụ ngôn về sự tà linh ám nhập một người để tiên tri về tình trạng thuộc linh của dân I-sơ-ra-ên vào thời ấy, thì có một phụ nữ, từ trong đám đông, đã kêu lên, thưa với Ngài. Bà đã cất tiếng, chúc phước cho mẹ của Đức Chúa Jesus.

Chúng ta không thấy Ma-thi-ơ và Mác ghi lại sự kiện này. Nhưng Đức Thánh Linh vẫn dùng Lu-ca ghi lại.

Như chúng ta đã học trong Lu-ca 1:28, thiên sứ Gáp-ri-ên đã trực tiếp phán với bà Ma-ri: “Ngươi đã được phước trong những người nữ”. Và trong Lu-ca 1:48, bà Ma-ri đã tự tiên tri về chính mình: “Vì này, từ nay về sau, mọi dòng dõi sẽ xưng tôi là có phước”. Ngay vào thời ấy, khi bà Ma-ri còn sống, lời tiên tri của bà đã bắt đầu được ứng nghiệm, qua tiếng kêu của người phụ nữ trong đám đông. Liền sau đó, bà Ma-ri đã có mặt tại chỗ.

Bà Ma-ri đã được hưởng phước rất lớn, là được làm mẹ của Đức Chúa Jesus. Nhưng Đức Chúa Jesus đã khẳng định: “Những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và giữ nó còn có phước hơn”. Chúng ta cần suy nghĩ nhiều về lời phán này của Đức Chúa Jesus, và so sánh phước của một người được làm mẹ của Đức Chúa Jesus với phước của một người nghe và làm theo Lời của Đức Chúa Trời.

Thật ra, sinh con và nuôi con khôn lớn là việc thường tình, cho dù có nhiều người phải trải qua tật bệnh và sự khó nghèo, trong khi sinh con và nuôi con. Hầu hết những phụ nữ trong thế gian đều có nghị lực để làm mẹ, vì đó là thiên chức. Nhưng từ bỏ chính mình để có thể sống theo Lời Chúa là điều phải luôn nhờ sức toàn năng của Chúa, cho tới trọn đời. Người sống theo Lời Chúa phải luôn ở trong chiến trận thuộc linh, bị ma quỷ tấn công về mọi phương diện. Mà sự tấn công mãnh liệt nhất vẫn là sự cám dỗ làm theo ý riêng, ham muốn sự giàu có, tôn cao bản thân, và vui thú trong sự tà dâm.

Ma-thi-ơ 12:46-47

46 Khi Ngài còn phán với dân chúng, kìa, mẹ và các em của Ngài đã đến, đứng bên ngoài, họ muốn nói với Ngài.

47 Có người đã thưa với Ngài: Kìa, mẹ của Ngài và các em của Ngài đứng bên ngoài, họ muốn nói với Ngài.

Mác 3:31-32

31 Rồi, các em và mẹ của Ngài đã đến, đứng bên ngoài, đã sai người đến với Ngài, gọi Ngài.

32 Đám đông vẫn ngồi chung quanh Ngài. Họ đã thưa với Ngài: Kìa, mẹ của Ngài và các em của Ngài ở bên ngoài, họ tìm Ngài.

Lu-ca 8:19-20

19 Mẹ và các em của Ngài đã đến với Ngài. Họ đã không thể gặp Ngài vì sự chen lấn.

20 Có người đã báo cho Ngài rằng: Mẹ của Ngài và các em của Ngài đứng bên ngoài, họ muốn gặp Ngài.

Mẹ và các em của Chúa có lẽ cũng nghe tin đồn Ngài bị mất trí (Mác 3:21) nên đã từ Na-xa-rét đến, tìm Ngài, tại nhà trọ của Ngài, ở thành Ca-bê-na-um. Vì khi ấy, có nhiều đám đông tụ tập trước nhà nên họ đã không thể gặp được Ngài. Ma-thi-ơ và Lu-ca đều ghi là có người báo tin cho Chúa, còn Mác thì ghi rõ là người ấy đã được mẹ và các em của Chúa sai đến, gặp Chúa để gọi Ngài, giúp cho họ. Có lẽ người ấy cũng không thể chen vào tận nơi để thưa với Chúa nên đã nhờ đám dân đông chuyển lời.

Ma-thi-ơ ghi: “họ muốn nói với Ngài”; Mác ghi: “họ tìm Ngài”; Lu-ca ghi: “họ muốn gặp Ngài”. Chúng tôi nghĩ rằng, cả ba đều ghi đúng nguyên văn câu nói của những người trong đám dân đông chuyển tin đến Chúa. Vì có nhiều người khác nhau nói và mỗi người dùng từ ngữ khác nhau một chút. Điều này giúp cho chúng ta thấy, sự ghi chép Thánh Kinh là trung thực chứ không phải là có mâu thuẫn về chi tiết.

Ma-thi-ơ 12:48-50

48 Ngài đã đáp lời, phán với người đã thưa với Ngài: Ai là mẹ của Ta? Ai là các em của Ta?

49 Ngài đã đưa tay của Ngài, hướng về các môn đồ của Ngài, mà phán: Này là mẹ của Ta và các em của Ta!

50 Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời, thì người ấy là em trai, em gái, và mẹ của Ta.

Mác 3:33-35

33 Nhưng Ngài đã đáp lời họ rằng: Ai là mẹ của Ta? Ai là các em của Ta?

34 Ngài đã nhìn những người ngồi chung quanh mình mà phán: Này, mẹ của Ta và các em của Ta!

35 Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì người ấy là em trai của Ta, em gái của Ta, và mẹ của Ta.

Lu-ca 8:21

21 Nhưng Ngài đã đáp lời, phán với họ: Mẹ của Ta và các em của Ta là những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và làm theo đó.

Ma-thi-ơ ghi là Chúa đáp lời người đã thưa với Ngài. Mác và Lu-ca đều ghi là Chúa đáp lời họ, tức là những người đã thưa với Ngài. Cả hai cách ghi đều đúng. Chúng ta có thể hiểu rằng, Chúa phán trực tiếp với người sau cùng thưa với Chúa, nhưng câu trả lời của Chúa cũng là cho những người đã chuyển tin nhắn trước người ấy.

Ma-thi-ơ và Mác đều ghi lại câu hỏi của Chúa: Ai là mẹ của Ta? Ai là các em của Ta? Nhưng Lu-ca thì không. Có lẽ là vì Lu-ca không nghe người thuật lại cho ông nhắc đến câu ấy.

Ma-thi-ơ ghi: “Ngài đã đưa tay của Ngài, hướng về các môn đồ của Ngài, mà phán”. Mác ghi: “Ngài đã nhìn những người ngồi chung quanh mình mà phán”. Có lẽ là vì Ma-thi-ơ ở bên cạnh Chúa nên ông nhìn thấy Chúa đưa tay. Mác thì ghi lại lời thuật của người khác, và người ấy ở cách xa Chúa, không thấy Chúa đưa tay, mà chỉ thấy Chúa đưa mắt nhìn quanh.

Thực tế, lúc ấy Đức Chúa Jesus đã đưa tay hướng về các môn đồ của Ngài để gọi họ là mẹ và các em của Ngài. Trong các môn đồ của Chúa cũng có mấy người là phụ nữ (Lu-ca 8:2-3). Đức Chúa Jesus đã dùng từ ngữ “anh em ruột” (G80) và “chị em ruột” (G79), tức là anh chị em cùng cha mẹ, hoặc cùng cha, hoặc cùng mẹ để gọi các em của Ngài. Vì thế, họ là con ruột của bà Ma-ri, không phải là các em họ (G431) của Đức Chúa Jesus, như Giáo Hội Công Giáo đã dạy để bảo vệ tà giáo cho rằng, bà Ma-ri đồng trinh trọn đời.

Ma-thi-ơ ghi: “Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời”. Mác ghi: “Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời”. Lu-ca ghi: “những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và làm theo đó”. Dù ba cách ghi khác nhau nhưng nội dung chính không khác nhau. Chúng ta có thể hiểu rằng, lời phán đầy đủ của Đức Chúa Jesus bao gồm các chi tiết, tương tự như sau: “Vì bất cứ ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời, là những ai nghe Lời của Đức Chúa Trời và làm theo đó, thì người ấy là em trai của ta, em gái của ta, và mẹ của Ta.” Ma-thi-ơ đã ghi lại theo trí nhớ của mình; còn Mác và Lu-ca thì ghi lại theo trí nhớ của người thuật chuyện.

Ngày nay, mỗi chúng ta vẫn được Đức Chúa Jesus xưng là mẹ, hoặc em trai, hoặc em gái của Ngài, nếu chúng ta thật lòng và hết lòng sống theo Lời Chúa. Ý của Đức Chúa Jesus khi Ngài dùng các danh từ mẹ, em trai, em gái để gọi những người sống theo Lời Chúa là để chỉ sự quan hệ vô cùng mật thiết của họ với Ngài, như tình thân ruột thịt trong thế gian.

Lu-ca 11:33-34

33 Không ai đã thắp đèn mà đặt tại chỗ khuất hay phía dưới thùng, nhưng đặt trên chân đèn, để những ai vào thì thấy ánh sáng.

34 Đèn của thân thể là mắt. Vậy, khi mắt của ngươi là sáng, cả thân thể của ngươi cũng được sáng láng; nhưng khi mắt của ngươi là xấu, thân thể của ngươi cũng đầy sự tối tăm.

Trong bài giảng trên núi về các phước lành, Đức Chúa Jesus đã có nói đến sự không ai thắp đèn mà đặt dưới thùng, nhưng đặt trên chân đèn để nó soi sáng khắp nhà (Ma-thi-ơ 5:15). Lời phán ấy liên kết sự chiếu sáng của đèn với sự con dân Chúa chiếu sáng sự vinh quang của Thiên Chúa. Trong Ma-thi-ơ 6:22-23, Đức Chúa Jesus đã phán dạy tương tự như câu 34. Chúng tôi xin trích lại lời đã chú giải, như sau [5]:

[Trích:]

Đèn là để chiếu sáng, xua tan bóng tối, giúp người ta tránh sự nguy hiểm và làm được việc muốn làm.

Đức Chúa Jesus ví mắt là đèn của thân thể không phải hàm ý con mắt soi sáng cho thân thể mà là con mắt tỏ ra thân thể có sự sáng hay không. Mắt tốt lành là mắt của một thân thể đầy dẫy sự sáng thuộc linh đến từ Đức Chúa Trời, nên sự sáng được chiếu ra trong ánh mắt. Mắt xấu là mắt của một thân thể không có sự sáng thuộc linh, nên không có sự sáng được chiếu ra trong ánh mắt.

Sự sáng thuộc linh trong thân thể đến từ Đức Chúa Trời chính là sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Ánh mắt của người thật sự tin Chúa, đã được dựng nên mới, hết lòng sống theo Lời Chúa sẽ khiến cho người khác nhìn vào, thấy được tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Đức Chúa Trời trong họ. Vì người tin Chúa đã được thoát ra khỏi sự tối tăm, vào trong sự sáng láng lạ lùng của Đức Chúa Trời. Người ấy ở trong sự sáng của Đức Chúa Trời và sự sáng của Đức Chúa Trời ở trong người ấy.

Nhưng các anh chị em là dòng dõi được lựa chọn, là chức thầy tế lễ của nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Ngài, để cho các anh chị em rao giảng sự trọn lành của Đấng đã gọi các anh chị em ra khỏi sự tối tăm, vào trong sự sáng láng lạ lùng của Ngài. [Xuất Ê-díp-tô Ký 19:5-6; Ê-sai 43:20-21; 61:6]” (I Phi-e-rơ 2:9).

Người có sự sáng của Đức Chúa Trời trở thành sự sáng của thế gian. Chính Đức Chúa Jesus đã khẳng định như vậy, trong Ma-thi-ơ 5:14.

Ánh mắt của người không tin Chúa thì không thể chiếu ra sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Vì họ không có sự vinh quang của Ngài. Ngày nào một người còn sống trong tội lỗi thì ngày đó người ấy vẫn thiếu mất sự vinh quang của Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:23). Sự tối tăm trong thân thể của người không tin Chúa là rất lớn. Vì trong họ chỉ có sự tối tăm của sự đau khổ và sự chết.

Thực tế, xưa nay vẫn có rất nhiều người xưng mình là con dân của Đức Chúa Trời, tưởng mình là con dân của Đức Chúa Trời, nhưng họ hoàn toàn không có sự vinh quang của Ngài. Bởi vì họ vẫn còn đang sống trong tội, vẫn thản nhiên vi phạm các điều răn của Đức Chúa Trời, khi họ ham thích những thú vui tội lỗi và tin theo sự giảng dạy tà giáo, trong các giáo hội.

[Hết trích.]

Lu-ca 11:35-36

35 Vậy, hãy coi chừng, để sự sáng trong ngươi không là sự tối tăm.

36 Vậy, nếu cả thân thể của ngươi sáng láng, không có phần nào tối tăm, thì sẽ được sáng hết thảy, như khi ánh sáng của đèn chiếu sáng cho ngươi.

Động từ “coi chừng” (G4648) trong tiếng Hy-lạp của Thánh Kinh rất là đặc biệt. Nó có nghĩa là chăm chú quan sát để tìm hiểu và ghi nhận, để đánh dấu, hoặc để suy tính cách đối phó, cách ứng xử. Nghĩa rộng là xem xét chính bản thân để hành xử cho đúng.

Câu 35 là một mệnh lệnh Đức Chúa Jesus truyền cho con dân Chúa. Ai nấy phải cẩn thận xem xét chính mình, giữ cho trong mình luôn có sự sáng đến từ Thiên Chúa. Sự sáng trong con dân Chúa sẽ trở thành sự tối tăm, khi con dân Chúa chọn làm theo ý riêng, chọn làm theo những lý luận, chủ nghĩa, giáo điều, phong tục của thế gian, không đúng với Lời Chúa.

Người thế gian ngày càng thể hiện nếp sống nghịch lại Lời Chúa, như đã được nói đến trong Ê-sai 5:20-21. Họ gọi dữ là lành, gọi lành là dữ; lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối; khôn sáng theo mắt mình…

Nếu con dân Chúa luôn giữ mình, sống theo Lời Chúa, thì trong họ luôn có sự sáng của Thiên Chúa và họ luôn là sự sáng của thế gian. Cả thân thể của họ là Đền Thờ của Thiên Chúa. Mọi lời nói và mọi việc làm của họ đều là sự tôn vinh Thiên Chúa và chiếu ra cho thế gian tình yêu, sự công chính, và sự thánh khiết của Thiên Chúa. Bản thân họ luôn được vui thỏa trong sự vinh quang của Thiên Chúa.

Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
04/05/2024

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

[1] https://thewordtoyou.net/dictionary/8-pha-ri-si

[2] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-chua-chet-va-ngay-chua-phuc-sinh/

[3] https://www.livius.org/articles/concept/roman-jewish-wars/roman-jewish-wars-3/

[4] https://www.worldhistory.org/article/1993/the-siege-of-jerusalem-in-70-ce/

[5] https://timhieuthanhkinh.com/tin-lanh-cua-duc-chua-jesus-christ-tl038-bai-giang-tren-nui-su-tha-thu-su-kieng-an-cua-cai-that-ngon-den-cua-than-the/

Karaoke Thánh Ca: “Đời Con Mãi Thuộc Ngài”
https://karaokethanhca.net/doi-con-mai-thuoc-ngai/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.