Chú Giải I Cô-rinh-tô 02:01-08 Khái Niệm Sai Lầm về Sự Giảng Tin Lành – Phần 1

3,907 views

 

Nguồn: https://youtu.be/feeg1O3H6OA

Chú Giải I Cô-rinh-tô 2:1-8
Khái Niệm Sai Lầm về Sự Giảng Tin Lành – Phần 1

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

I Cô-rinh-tô 2:1-8

1 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Khi tôi đến với các anh chị em, tôi đã không đến với sự cao xa của bài diễn văn hay là sự khôn sáng để công bố cho các anh chị em lời chứng của Đức Chúa Trời.

2 Vì ở giữa các anh chị em, tôi đã quyết định rằng, tôi chẳng biết sự gì ngoài Đức Chúa Jesus Christ, và Ngài đã bị đóng đinh trên cây thập tự.

3 Tôi đã ở với các anh chị em trong sự đau yếu, trong sự sợ hãi, và trong sự run rẩy lắm.

4 Bài diễn thuyết và sự giảng của tôi chẳng với những lời thuyết phục của sự khôn sáng của loài người; nhưng bởi sự tỏ ra của thần trí và của năng lực

5 để cho đức tin của các anh chị em chẳng đứng trong sự khôn sáng của loài người, nhưng trong năng lực của Thiên Chúa.

6 Tuy nhiên, chúng tôi giảng sự khôn sáng giữa những người trọn vẹn. Nhưng chẳng phải sự khôn sáng của đời này, cũng không phải của những kẻ cai trị của đời này, là những sự vô ích.

7 Nhưng chúng tôi giảng sự khôn sáng của Thiên Chúa trong sự mầu nhiệm. Là sự kín giấu mà Đức Chúa Trời đã định sẵn trước các thời đại cho sự vinh quang của chúng ta.

8 Sự ấy không ai trong những kẻ cai trị của đời này biết. Vì nếu họ biết, họ đã không đóng đinh Chúa của sự vinh quang trên thập tự giá.

Nguyên nhân thứ nhất gây ra sự phân rẽ trong Hội Thánh là khái niệm sai lầm về Tin Lành, như I Cô-rinh-tô 1:18-31 đã giúp cho chúng ta thấy. Nguyên nhân thứ nhì là khái niệm sai lầm về sự giảng Tin Lành, khi con dân Chúa không nhận thức được rằng, sự giảng Tin Lành phải được thi hành bởi sự khôn sáng thuộc linh và theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, chứ không phải bởi sự khôn sáng của xác thịt, cũng không theo những phương cách của loài người.

Sự giảng Tin Lành bao gồm hai phương diện. Phương diện thứ nhất là công bố Tin Lành cho người chưa được cứu. Phương diện thứ nhì là dạy Tin Lành cho người đã được cứu. Vậy, mục đích của sự giảng Tin Lành là để cứu người và để gây dựng Hội Thánh.

Trong thực tế, từ xưa đến nay, và nhất là trong những ngày cuối cùng này, phần lớn những sự giảng Tin Lành, bao gồm cho người chưa được cứu lẫn cho con dân Chúa, đã được dựa trên sự suy nghĩ và hiểu biết của lý trí xác thịt, dựa trên những phương cách thuyết phục lòng người theo tâm lý học. Mục đích là để tìm kiếm sự vinh quang cho bản thân người giảng, thay vì để cứu người hoặc gây dựng Hội Thánh. Lại có trường hợp giảng Tin Lành vì lòng ganh ghét và cạnh tranh. Tệ nạn này đã có trong Hội Thánh ngay từ khi Hội Thánh mới được thành lập chưa bao lâu. Trong thư gửi cho Hội Thánh tại Phi-líp, Sứ Đồ Phao-lô đã nói đến tệ nạn này:

“Thật, có vài kẻ vì lòng ganh ghét và cạnh tranh mà rao giảng Đấng Christ, nhưng cũng có những người vì ý tốt.” (Phi-líp 1:15).

Thư Phi-líp được viết vào khoảng năm 61 hoặc 62. Ngay từ lúc ấy đã có những kẻ rao giảng Tin Lành vì lòng ganh ghét và cạnh tranh. Họ ganh ghét vì thấy Phao-lô vượt trội hơn họ trong mục vụ. Họ cạnh tranh vì muốn được bằng hay là hơn Phao-lô. Vì thế, mục đích của họ khi rao giảng Tin Lành là để tìm kiếm sự vinh quang cho chính họ.

Một người rao giảng với lòng ganh ghét và cạnh tranh khác với một người rao giảng tà giáo, vì người rao giảng với lòng ganh ghét và cạnh tranh vẫn rao giảng Tin Lành chân thật. Trong khi đó, những kẻ rao giảng tà giáo thì rao giảng một Tin Lành khác, một Đức Chúa Jesus khác, một Đức Chúa Trời khác, một Đức Thánh Linh khác, và một thánh linh khác không đúng với Thánh Kinh. Tà giáo làm hại người nghe, dẫn họ đi sai lạc khỏi lẽ thật của Lời Chúa.

Dù Tin Lành chân chính được rao giảng bởi lòng ganh ghét và cạnh tranh thì người nghe vẫn được cứu và được phước, nếu thật lòng tin nhận. Nhưng những người rao giảng như vậy đã làm gương xấu trong Hội Thánh. Họ gây ra bè phái, phe đảng trong Hội Thánh khi tụ tập những người ủng hộ mình để chống lại hoặc gây khó khăn cho những người rao giảng khác. Phao-lô viết tiếp trong thư Phi-líp:

“Thực tế, những kẻ công bố Đấng Christ vì lòng cạnh tranh, không thành thật, tưởng rằng, thêm những gánh nặng cho sự bị xiềng xích của tôi… Vậy thì sao? Dù là giả vờ hay thật lòng, Đấng Christ cũng được rao giảng. Vì thế mà tôi cứ vui mừng và sẽ vui mừng.” (Phi-líp 1:16, 18).

Cũng có những người rao giảng Tin Lành không vì lòng ganh ghét hay cạnh tranh với ai nhưng với mục đích tìm kiếm sự vinh quang cho bản thân. Họ mong được nổi tiếng là người giảng Tin Lành có nhiều người tin Chúa. Họ mong được nổi tiếng là người giảng dạy Lời Chúa đầy ơn. Việc làm của họ chẳng khác nào dùng gỗ, cỏ khô, rơm rạ xây dựng trên nền đức tin. Dù cũng có người tin nhận Tin Lành hoặc có con dân Chúa lớn lên trong đức tin qua sự giảng của họ nhưng việc làm của họ không thể còn lại, khi trải qua lửa thử nghiệm của Đấng Christ. Nghĩa là trong đời sau, họ sẽ không nhận được phần thưởng gì từ nơi Chúa cho việc giảng Tin Lành của họ. Vì trong đời này, họ đã nhận lãnh sự khen thưởng mà họ trông đợi nơi loài người (I Cô-rinh-tô 3:10-15). Người rao giảng Tin Lành cách chân chính là người rao giảng bởi sự khôn sáng thuộc linh, theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh; được thúc giục bởi tình yêu đối với những người đang bị hư mất, đối với những anh chị em cùng Cha đang khao khát Lời Chúa; và mục đích của họ khi rao giảng là tôn vinh Thiên Chúa qua sự cứu người và gây dựng Hội Thánh. Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô, gọi họ là những người giảng Tin Lành bởi tình yêu. Đó là tình yêu của họ đối với Thiên Chúa và đối với loài người.

Nội dung của I Cô-rinh-tô 2:1-16 giúp cho con dân Chúa trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô nhận thức rằng, họ đã có khái niệm sai lầm về sự giảng Tin Lành. Nhưng nội dung ấy cũng là bài học giúp cho con dân Chúa khắp nơi có khái niệm đúng về sự giảng Tin Lành.

1 Hỡi các anh chị em cùng Cha! Khi tôi đến với các anh chị em, tôi đã không đến với sự cao xa của bài diễn văn hay là sự khôn sáng để công bố cho các anh chị em lời chứng của Đức Chúa Trời.

“Khi tôi đến với các anh chị em” là lần đầu tiên khi Phao-lô đến thành Cô-rinh-tô vào cuối chuyến truyền giáo lần thứ nhì của ông, ở lại đó 18 tháng để giảng Tin Lành và xây dựng Hội Thánh tại Cô-rinh-tô. Phao-lô đã từ thành A-thên đến thành Cô-rinh-tô vào cuối mùa thu năm 50. Sự việc này được ghi lại trong Công Vụ Các Sứ Đồ đoạn 18.

Vào thời của Phao-lô, có nhiều nhà diễn thuyết người Hy-lạp và người La-mã đi khắp nơi trong đế quốc La-mã để diễn thuyết về đủ loại đề tài. Vì người Hy-lạp và người La-mã thời ấy ưa thích triết học, tín ngưỡng, và nghệ thuật [1]. Cô-rinh-tô là một thương cảng lớn và là giao điểm của nhiều thương lộ về đường bộ lẫn đường biển nên dân Cô-rinh-tô cũng có nhiều kinh nghiệm được nghe các nhà hùng biện diễn thuyết. Phao-lô nói rõ, ông không phải là một nhà hùng biện với bài diễn văn cao xa, được biên soạn công phu theo nghệ thuật diễn thuyết. Ông cũng không rao giảng với sự khôn sáng thuộc về đời này, mặc dù trước khi ông tin nhận Đấng Christ, ông được học với một giáo sư nổi tiếng thời bấy giờ tại Giê-ru-sa-lem; giáo sư Ga-ma-li-ên (Công Vụ Các Sứ Đồ 22:3). Ông chỉ làm công việc công bố Tin Lành của Đức Chúa Trời, còn gọi là “lời chứng của Đức Chúa Trời”.

“Công bố” là nói ra rõ ràng, đúng sự thật một điều gì đó trước công chúng. “Lời chứng của Đức Chúa Trời” vừa có nghĩa là bản thân của Đức Chúa Jesus Christ vừa có nghĩa là những gì Phao-lô rao giảng về Đức Chúa Jesus Christ. Đức Chúa Jesus Christ là Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người để giãi bày về Đức Chúa Trời và tình yêu của Đức Chúa Trời đối với loài người cho loài người nên Ngài chính là “lời chứng của Đức Chúa Trời”. Phao-lô rao giảng về Đức Chúa Jesus Christ nên lời rao giảng của Phao-lô cũng chính là “lời chứng của Đức Chúa Trời”. Nghĩa là qua lời giảng của Phao-lô, Đức Chúa Trời làm chứng về chính Ngài và tình yêu của Ngài đối với loài người.

2 Vì ở giữa các anh chị em, tôi đã quyết định rằng, tôi chẳng biết sự gì ngoài Đức Chúa Jesus Christ, và Ngài đã bị đóng đinh trên cây thập tự.

Động từ “đã quyết định” nói lên thái độ dứt khoát của Phao-lô. Trước con dân Chúa trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô, Phao-lô đã chẳng rao giảng gì khác hơn là rao giảng về Đức Chúa Jesus Christ và sự Ngài chịu bị đóng đinh trên thập tự giá để cứu chuộc loài người ra khỏi án phạt của tội lỗi.

Rõ ràng, Phao-lô chỉ công bố một sự thật. Ông không cần phải soạn một bài diễn văn với những lời lẽ cao xa để thuyết phục người nghe. Ông cũng không theo sự khôn sáng của người thế gian, tìm cách lấy lòng hay khích động người nghe. Ông không cần tổ chức đại nhạc hội để công bố Tin Lành. Ông không cần tổ chức làm từ thiện để công bố Tin Lành. Ông cũng không cần tổ chức chữa bệnh, đuổi quỷ để công bố Tin Lành. Ông đến, đứng giữa những người Cô-rinh-tô và công bố Tin Lành theo như Đức Thánh Linh thần cảm ông.

3 Tôi đã ở với các anh chị em trong sự đau yếu, trong sợ hãi, và trong sự run rẩy lắm.

Phao-lô đã sống giữa con dân Chúa trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô suốt 18 tháng. Vì thế, họ rất quen thuộc với tình trạng thuộc thể lẫn thuộc linh của Phao-lô. Về thuộc thể, Phao-lô dường như bị một chứng bệnh mà Chúa đã không chữa lành cho ông. Thánh Kinh không nói rõ Phao-lô bị bệnh gì nhưng các từ ngữ “yếu đuối” và “đau yếu” trong I Cô-rinh-tô 2:3; II Cô-rinh-tô 10:10; 11:30; 12:9-10; Ga-la-ti 4:13 đều chỉ về sự thân thể xác thịt bị đau yếu vì bệnh tật.

Có thể Phao-lô bị chứng sốt rét kinh niên. Cũng có thể ánh sáng rực rỡ từ trời chiếu vào đôi mắt của Phao-lô trên đường ông đi đến Đa-mách để bách hại Hội Thánh của Chúa, khiến ông bị mù trong ba ngày, đã làm cho mắt của ông sau đó bị yếu đi, thị lực bị giảm và nước mắt thường chảy ra.

Trong thư II Cô-rinh-tô, Phao-lô đã tâm sự với con dân Chúa tại Cô-rinh-tô:

“Vậy nên, để tôi không lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng lớn của những sự tỏ ra ấy, thì đã cho một cái dằm xóc vào thịt tôi, tức là sứ giả của Sa-tan, để vả tôi cho đừng kiêu ngạo.” (II Cô-rinh-tô 12:7).

Dù cho sự đau yếu trong thân thể xác thịt của Phao-lô là gì thì đó cũng là sự cho phép của Chúa và Ngài đã chọn không chữa lành cho ông. Phao-lô viết tiếp:

“Vì sự ấy tôi đã ba lần kêu cầu Chúa cho nó lìa khỏi tôi. Nhưng Ngài phán với tôi: Ân điển của Ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của Ta nên trọn vẹn trong sự đau yếu. Vậy, tôi sẽ vui lòng thà khoe mình trong sự đau yếu của tôi, để cho sức mạnh của Đấng Christ ngự trên tôi. Cho nên, tôi vì Đấng Christ mà vui lòng trong những sự đau yếu, trong những sự sỉ nhục, trong những sự túng thiếu, trong những sự bách hại, trong những sự khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ.” (II Cô-rinh-tô 12:8-10).

Sự sợ hãi và run rẩy được Phao-lô nói đến ở đây là sự sợ hãi và run rẩy trước Chúa khi ông công bố Tin Lành. Phao-lô sợ ông không làm tròn thiên chức Chúa đã giao phó. Phao-lô run rẩy vì ông nhận ra, Chúa đang hiện diện bên cạnh ông trong khi ông rao giảng.

Người nào biết sợ hãi và run rẩy trước Chúa khi rao giảng Tin Lành thì người ấy sẽ không hề nghĩ đến việc tìm kiếm vinh quang cho bản thân, sẽ không hề nghĩ đến việc vận dụng thuật hùng biện và tâm lý học để thu phục người nghe. Trái lại, người ấy rao giảng như Chúa đang hiện ra, ở ngay bên cạnh người ấy. Người ấy hoàn toàn để cho Đức Thánh Linh dẫn dắt mình và dâng mọi vinh quang lên Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây cũng chính là thái độ mỗi con dân Chúa cần phải có ngay cả những lúc ca hát tôn vinh Chúa hoặc làm chứng ơn phước Chúa.

4 Bài diễn thuyết và sự giảng của tôi chẳng với những lời thuyết phục của sự khôn sáng của loài người; nhưng bởi sự tỏ ra của thần trí và của năng lực

5 để cho đức tin của các anh chị em chẳng đứng trong sự khôn sáng của loài người, nhưng trong năng lực của Thiên Chúa.

“Diễn thuyết” là dùng lời nói để trình bày một sự việc, một ý tưởng, giúp người nghe biết đến sự việc ấy, ý tưởng ấy. Giảng là giải thích những gì đã được trình bày, giúp người nghe hiểu đúng. Phao-lô vừa trình bày Tin Lành vừa giải thích ý nghĩa của Tin Lành cho dân thành Cô-rinh-tô nhưng ông không dùng những lời nói có tính cách thuyết phục theo sự khôn sáng của loài người. Vì Tin Lành là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin (Rô-ma 1:16) nên sự trình bày và giải thích Tin Lành phải bởi năng lực của Thiên Chúa và bởi sự Đức Thánh Linh đã tỏ ra trong thần trí của người công bố Tin Lành. Chính vì thế mà khi những người nghe tin nhận Tin Lành thì đức tin của họ được vững vàng trong năng lực của Thiên Chúa.

Rất nhiều người giảng Tin Lành theo sự khôn sáng của xác thịt và theo năng lực của bản thân họ, khiến cho nhiều người nghe và tin nhận Tin Lành do họ rao giảng đã đặt đức tin trong sự khôn sáng của người rao giảng, thần tượng hóa người rao giảng.

Người tin nhận Tin Lành hoặc người học Lời Chúa đặt đức tin trong sự khôn sáng của loài người thay vì đặt đức tin trong năng lực của Thiên Chúa, khi người ấy thán phục tài diễn thuyết, thán phục sự nắm bắt tâm lý của người giảng Tin Lành hoặc người dạy Lời Chúa theo sự khôn sáng của loài người hơn là bị bắt phục bởi năng lực của Tin Lành hoặc của Lời Chúa.

Nếu sự giảng Tin Lành và dạy Lời Chúa thật sự bởi năng lực của Thiên Chúa và bởi sự Đức Thánh Linh tỏ ra trong thần trí của người giảng, người dạy, thì bất cứ lời giảng và lời dạy của bất cứ ai cũng đều có chung các đặc tính: ngay thẳng, chân thật, và đầy ơn. Người nghe nhận biết ngay, Chúa đang phán với mình qua lời giảng, lời dạy. Và nếu người nghe có lòng tìm kiếm Chúa, tin kính Chúa thì người ấy sẽ bị bắt phục bởi Tin Lành, bởi Lời Chúa. Đức tin của người ấy vào Tin Lành, vào Lời Chúa đứng vững trong năng lực của Thiên Chúa. Đức tin ấy làm biến đổi người ấy, dẫn người ấy vào trong sự sống và sống cách sung mãn (Giăng 10:10).

6 Tuy nhiên, chúng tôi giảng sự khôn sáng giữa những người trọn vẹn. Nhưng chẳng phải sự khôn sáng của đời này, cũng không phải của những kẻ cai trị của đời này, là những sự vô ích.

Phao-lô nói rõ, ông và những người cùng tham dự hành trình truyền giáo của ông, như Lu-ca, dù không giảng Tin Lành theo sự khôn sáng của loài người nhưng sự rao giảng của ông và các bạn của ông chính là sự rao giảng khôn sáng, vì giảng về Thiên Chúa là giảng về Đấng Khôn Sáng:

“Ôi! Sâu nhiệm thay là sự giàu có về sự khôn sáng và sự thông biết của Thiên Chúa! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường lối của Ngài nào ai tìm được!” (Rô-ma 11:33).

Và giảng về Đức Chúa Jesus Christ là giảng về “Đấng ra từ Thiên Chúa đã được làm thành sự khôn sáng” cho những ai tin nhận Tin Lành (I Cô-rinh-tô 1:30).

“Những người trọn vẹn” là những người thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Họ được Ngài làm nên trọn vẹn, vì Ngài đã dùng máu của Ngài rửa sạch bản tính tội lỗi của họ:

“Đấng ấy là sự chói sáng của sự vinh quang và hình thể của bản thể Ngài, và nâng đỡ muôn vật bởi tiếng phán năng lực của Ngài. Chính Ngài làm xong sự rửa sạch những tội lỗi của chúng ta; ngự bên phải của Đấng Tôn Nghiêm trên cao…” (Hê-bơ-rơ 1:3).

“Vì một lần dâng của lễ, Ngài đã làm nên trọn vẹn cho đến mãi mãi những người được làm nên thánh.” (Hê-bơ-rơ 10:14).

“Sự khôn sáng của đời này” là tất cả những sự trí thức của người không tin nhận, không vâng phục Chúa. Tất cả những sự khôn sáng ấy đều là vô ích vì không cứu được loài người ra khỏi sức mạnh và hậu quả của tội lỗi.

“Những kẻ cai trị của đời này” theo văn mạch từ câu 6 đến câu 8 là những bậc cai trị trong dân I-sơ-ra-ên, từ thầy tế lễ thượng phẩm đến các trưởng lão, cùng nhà cầm quyền La-mã thời bấy giờ. Những sự khôn sáng của họ là những sự vô ích.

7 Nhưng chúng tôi giảng sự khôn sáng của Thiên Chúa trong sự mầu nhiệm. Là sự kín giấu mà Đức Chúa Trời đã định sẵn trước các thời đại cho sự vinh quang của chúng ta.

Tin Lành là sự khôn sáng của Thiên Chúa vì trong Tin Lành thể hiện cách Thiên Chúa cứu rỗi loài người mà không vi phạm đặc tính thánh khiết và công chính của Thiên Chúa.

Chúng ta đã biết, đặc tính của Thiên Chúa chiếu sáng thành sự vinh quang của Ngài là: tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính. Vì yêu nên Thiên Chúa không muốn loài người hư mất đời đời trong hỏa ngục sau khi phạm tội, tức vi phạm các điều răn của Ngài. Vì thánh khiết nên Thiên Chúa không thể chấp nhận bất cứ một sự phạm tội nào, nghĩa là không chấp nhận bất cứ một sự vi phạm nào về các điều răn của Ngài. Vì công chính nên Thiên Chúa phải hình phạt bất cứ ai phạm tội, cho dù chỉ vi phạm một lần, một điều răn của Ngài.

Nếu Thiên Chúa không hình phạt sự phạm tội của loài người thì Ngài vì tình yêu mà trở thành không công chính.

Nếu Thiên Chúa trở thành không công chính thì Ngài không còn là thánh khiết, vì đã đương nhiên chấp nhận sự phạm tội.

Nếu Thiên Chúa trở thành không công chính, không thánh khiết thì Ngài cũng không còn là tình yêu.

Nếu Thiên Chúa không cứu rỗi loài người thì Ngài cũng không còn là tình yêu, vì tình yêu đòi hỏi sự từ ái và sự thương xót. Từ ái là vì yêu mà đối xử tốt. Thương xót là đồng cảm sự đau khổ của người khốn khổ.

Khi Sa-tan cám dỗ loài người phạm tội là nó trực tiếp tấn công vào sự vinh quang của Thiên Chúa. Có lẽ Sa-tan nghĩ rằng, Thiên Chúa sẽ không thể nào giải quyết được nan đề loài người bị hư mất vì phạm tội. Thế nhưng, Thiên Chúa đã giải quyết nan đề ấy bằng sự khôn sáng tuyệt đối của Thiên Chúa. Đó là chính Thiên Chúa nhập thế làm người, gánh thay cho loài người án phạt của tội lỗi. Thiên Chúa trong thân vị Ngôi Lời đã nhập thế làm một người trọn vẹn, chịu sinh ra dưới luật pháp của Đức Chúa Trời, vâng giữ luật pháp của Đức Chúa Trời, và gánh lấy án phạt của luật pháp thay cho loài người. Ngài là người nên có thể chết thay cho người. Ngài là Thiên Chúa nên có thể chết thay cho tất cả mọi người vì mạng sống của Ngài là vô hạn. Hơn nữa, vì một người mà tội lỗi bắt phục mọi người, lấy đi sự sống của mọi người thì cũng vì một người mà mọi người được giải phóng khỏi tội lỗi cùng hậu quả của tội lỗi. Đó là sự công bình theo luật pháp của Thiên Chúa. Đó cũng chính là một trong các sự mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời là sự mà Ngài chỉ tỏ ra cho những người được chọn. Tin Lành chẳng những là sự khôn sáng của Thiên Chúa mà còn là sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời chỉ tỏ ra ý nghĩa đích thực của Tin Lành cho những ai thật lòng tin nhận Tin Lành. Người thật lòng tin nhận Tin Lành là người thật lòng ăn năn tội, chán ghét tội, không muốn phạm tội nữa nhưng muốn sống một đời sống thánh khiết, vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa. Người ấy hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Người ấy đặt Thánh Kinh làm thẩm quyền tuyệt đối trong đời sống của mình. Người ấy được Đức Chúa Trời chọn làm con trai hoặc con gái của Ngài và được thừa hưởng cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời, trong Nước Trời.

Tin Lành đã được Đức Chúa Trời định sẵn trước các thời đại, có nghĩa là Tin Lành đã được Đức Chúa Trời định sẵn từ trước khi sáng thế. Chỉ từ khi sáng thế thì mới có các thời đại. Vậy, trước các thời đại là trước khi sáng thế.

Bởi sự toàn tri (biết hết mọi sự) của Thiên Chúa, Ngài biết trước sự sa ngã của loài người và Ngài đã định sẵn chương trình cứu chuộc loài người ngay cả trước khi Ngài dựng nên các tầng trời và trái đất. Bởi sự toàn tri của Thiên Chúa Ngài biết trước những ai sẽ đáp lời kêu gọi của Ngài và Ngài đã chọn những người ấy từ trước khi sáng thế.

“Vì những ai Ngài đã biết trước thì Ngài cũng đã định sẵn để giống như hình ảnh của con Ngài, để con ấy là con đầu lòng trong nhiều anh chị em cùng Cha. Và những ai Ngài đã định sẵn thì Ngài cũng đã gọi họ. Những ai Ngài đã gọi thì Ngài cũng đã xưng họ là công bình. Những ai Ngài đã xưng là công bình thì Ngài cũng đã làm cho họ vinh hiển.” (Rô-ma 8:29-30).

“Tôn vinh Đức Chúa Trời và Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, Đấng đã ban phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng trong các nơi trên trời. Đến nỗi, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng ấy từ trước khi lập nền thế gian, để chúng ta được nên thánh và không chỗ trách được, trước Ngài, trong tình yêu.” (Ê-phê-sô 1:3-4).

“Hãy biết rằng, chẳng phải bởi những vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà các anh chị em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra gì theo truyền thống từ cha ông. Nhưng bởi máu cao quý của Đấng Christ, dường như máu của chiên con không lỗi, không vết, là Đấng thật được định sẵn trước sự sáng thế, và hiện ra trong cuối các thời kỳ cho các anh chị em…” (I Phi-e-rơ 1:18-20).

Mục đích cuối cùng của Thiên Chúa đối với những ai tin kính Ngài là làm cho họ vinh quang, sống đời đời hạnh phúc trong vương quốc của Ngài.

“Sự vinh quang của chúng ta” là sự con dân Chúa trở nên yêu thương, thánh khiết, và công chính giống như Thiên Chúa, phản ánh Thiên Chúa cách trọn vẹn cho đến đời đời. Sự vinh quang ấy đã được Đấng Christ ban cho những ai tin cậy và vâng phục Thiên Chúa:

“Con đã ban cho họ sự vinh quang mà Ngài đã ban cho con để họ là một cũng như Chúng Ta là một.” (Giăng 17:22).

Chúng ta hãy tạm dừng mọi hoạt động trong một khoảnh khắc để suy nghĩ đến sự kiện mình được Thiên Chúa biết trước và chọn. Hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa! Hãy lớn tiếng tôn vinh danh Ngài!

Đừng bao giờ để cho một ham muốn bất chính, một sự kiêu ngạo hay lòng tự ái không đúng khiến cho chúng ta bị trật phần ân điển mà Đức Chúa Jesus Christ đã dùng máu của Ngài mua về cho chúng ta. Ai đang còn sống trong tội hãy lập tức đến với sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, trước khi quá muộn.

8 Sự ấy không ai trong những kẻ cai trị của đời này biết. Vì nếu họ biết, họ đã không đóng đinh Chúa của sự vinh quang trên thập tự giá.

“Sự ấy” chính là Tin Lành, sự khôn sáng của Đức Chúa Trời, một trong những sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Bất cứ ai không có lòng tìm kiếm Thiên Chúa và vâng phục Thiên Chúa thì không thể hiểu, không thể biết được Tin Lành. Tương tự như những người bị bệnh mù màu không thể nhận thức được màu đỏ và màu xanh lá cây, dù hai màu ấy vẫn hiện ra trước mắt họ, dù họ vẫn nhìn thấy cảnh vật cách rõ ràng.

“Nhưng nếu Tin Lành của chúng tôi đã bị che khuất là đã bị che khuất trong những kẻ bị hư mất, trong những kẻ chẳng tin mà đức chúa trời của đời này [Sa-tan] đã làm mù lý trí của họ, kẻo sự sáng chói của Tin Lành Đấng Christ, Đấng là hình ảnh của Đức Chúa Trời, chiếu sáng họ.” (II Cô-rinh-tô 4:3-4).

Những kẻ cai trị đời này được nói đến trong câu 8 là chỉ về những kẻ cầm quyền trong tôn giáo của dân I-sơ-ra-ên lẫn những kẻ cầm quyền trong chính quyền La-mã, vào thời của Phao-lô. Những kẻ cầm quyền trong chính quyền La-mã, điển hình là Thống Đốc Phi-lát, đương nhiên không biết gì về Tin Lành, vì họ thờ lạy tà thần và tìm kiếm quyền lực của thế gian. Những kẻ cầm quyền trong tôn giáo của I-sơ-ra-ên dù miệng tôn xưng Thiên Chúa nhưng lòng thì tôn xưng chính bản ngã của họ (Ma-thi-ơ 23) và tìm kiếm quyền lực trong tôn giáo nên không thể hiểu và biết Tin Lành, dù Tin Lành đã được tiên tri trong Thánh Kinh Cựu Ước.

Chính vì thế mà họ đã đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ trên thập tự giá. Họ không nhận biết Đức Chúa Jesus Christ là Đấng Cứu Rỗi của nhân loại đã được Đức Chúa Trời hứa trong Thánh Kinh Cựu Ước. Họ không nhận biết Ngài là Thiên Chúa hiện thân trong xác thịt loài người để cứu họ ra khỏi sức mạnh và hậu quả của tội lỗi.

Con người xác thịt mang tên Jesus là Chúa của sự vinh quang không phải vì Ngài cũng là Thiên Chúa. Khi nhập thế làm người, Thiên Chúa Ngôi Lời đã từ bỏ sự vinh quang của Thiên Chúa như Phi-líp 2:6-8 đã nói rõ. Nhưng vì Ngài là một người trọn vẹn và hoàn thành thánh ý của Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài sự vinh quang của chính Thiên Chúa, như Giăng 17:22 và Phi-líp 2:9-11 đã nói. Vì thế, trong thân vị loài người, Ngài đã được mang danh “Đức Chúa Trời”, cầm quyền trên muôn loài, như đã được tiên tri trong Thi Thiên 45:6-7 và được xác định trong Hê-bơ-rơ 1:8-9. Vì thế, con người xác thịt Jesus đã trở thành Chúa của sự vinh quang. Và Ngài đã ban sự vinh quang của Ngài cho bất cứ ai tin nhận Ngài và sống theo Ngài.

Con dân Chúa cần phải hiểu rằng, sự giảng Tin Lành một cách chân thật là sự công bố những lẽ thật về Tin Lành với mục đích cứu những người chưa tin Chúa; giải thích chu đáo những lẽ thật ấy để thêm sự hiểu biết thuộc linh cho những người đã tin Chúa. Sự giảng Tin Lành không phải là sự khoe khoang tài hùng biện, khoe khoang trí thức và sự khôn sáng theo thế gian của người giảng.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
02/11/2019

Ghi Chú

[1] https://www.wikiwand.com/vi/Di%E1%BB%85n_thuy%E1%BA%BFt_tr%C6%B0%E1%BB%9Bc_c%C3%B4ng_ch%C3%BAng

Karaoke Thánh Ca: “Vì Chúa Là Chúa Tình Yêu”
https://karaokethanhca.net/vi-chua-la-chua-tinh-yeu/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.