Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL004 Ngôi Lời Đã Tự Trở Nên Xác Thịt

535 views

YouTube: https://youtu.be/Pjt6zktAez4

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL004 Ngôi Lời Đã Tự Trở Nên Xác Thịt
Giăng 1:6-14

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Giăng 1:6-14

6 Có một người đã được sai đến từ Thiên Chúa. Tên của ông là Giăng.

7 Ông đã đến để làm chứng nhân, để làm chứng về Sự Sáng, để bởi lời chứng của ông mà mọi người tin.

8 Ông không phải là Sự Sáng, nhưng đã đến để làm chứng về Sự Sáng.

9 Ngài hằng là Sự Sáng Thật, Đấng đến trong thế gian, soi sáng mỗi người.

10 Ngài hằng ở trong thế gian, và thế gian đã thực hữu bởi Ngài, nhưng thế gian đã chẳng biết Ngài.

11 Ngài đã đến với những sự thuộc về Ngài nhưng những sự thuộc về Ngài đã chẳng tiếp nhận Ngài.

12 Nhưng những ai đã tiếp nhận Ngài thì Ngài đã ban cho họ, tức là những ai tin vào danh của Ngài, quyền trở nên những con cái của Thiên Chúa.

13 Những người ấy đã được sinh ra chẳng bởi các dòng máu, cũng chẳng bởi ý muốn của xác thịt, cũng chẳng bởi ý muốn của người nào, nhưng bởi ý muốn của Thiên Chúa.

14 Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt và đã đóng trại giữa chúng ta, đầy dẫy ân điển và lẽ thật. Chúng tôi đã ngắm xem sự vinh quang của Ngài, sự vinh quang như của Con Một đến từ Cha.

Có một vài nhà giải kinh đã cho rằng, Giăng 1:9-14 là lời làm chứng của Giăng Báp-tít. Nhưng xét về văn mạch thì chúng ta có thể nhận ra, suốt từ Giăng 1:1 đến Giăng 1:14 đều hoàn toàn là lời của Sứ Đồ Giăng, giãi bày về thần tính của Đức Chúa Jesus. Trong đó, các câu từ 6 đến 8 được Sứ Đồ Giăng dùng để nói đến sự kiện Giăng Báp-tít là người được Thiên Chúa sai đến, làm chứng nhân cho Đấng Christ. Trước ba câu đó và sau ba câu đó, cho đến hết câu 14, đều là lời Sứ Đồ Giăng giãi bày về thần tính của Đấng Christ, không phải là lời ông lặp lại lời chứng của Giăng Báp-tít. Từ câu 15 trở đi thì Sứ Đồ Giăng mới lặp lại lời chứng của Giăng Báp-tít, và tường thuật hoạt động của Giăng Báp-tít.

Danh xưng “Báp-tít” (G910) có nghĩa là “người làm báp-tem”, được dùng để gọi Giăng là người dọn đường cho Chúa và làm báp-tem cho những ai ăn năn tội, sẵn sàng đón nhận Tin Lành. Chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết về Giăng Báp-tít, trong các bài học sắp đến.

6 Có một người đã được sai đến từ Thiên Chúa. Tên của ông là Giăng.

7 Ông đã đến để làm chứng nhân, để làm chứng về Sự Sáng, để bởi lời chứng của ông mà mọi người tin.

8 Ông không phải là Sự Sáng, nhưng đã đến để làm chứng về Sự Sáng.

Sứ Đồ Giăng đang viết về Thiên Chúa Ngôi Lời thì ông tạm ngưng, để nói đến một người đã được Thiên Chúa sai đến, làm chứng nhân cho thần tính và mục vụ của Thiên Chúa Ngôi Lời, khi Ngài nhập thế làm người.

Cách nói “được sai đến từ Thiên Chúa” giúp cho chúng ta hiểu, sự thực hữu và mục vụ của Giăng Báp-tít là hoàn toàn nằm trong chương trình và ý định của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Tên “Giăng” (G2491) có nghĩa: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Đấng ban cho rời rộng.

Mệnh đề “ông đã đến” hàm ý, Giăng Báp-tít đã được sinh ra làm người. Mục đích của sự Giăng Báp-tít được sinh ra làm người là để làm chứng nhân cho thần tính và mục vụ của Thiên Chúa Ngôi Lời, khi Ngài nhập thế làm người. Động từ “đã đến” (G2064) còn có nghĩa là: đã xuất hiện trước công chúng. Giăng Báp-tít đã xuất hiện trước dân I-sơ-ra-ên để rao giảng về sự đến của Đấng Christ.

Sau khi Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người, mang tên Jesus, bắt đầu thi hành mục vụ rao giảng về Thiên Chúa và Tin Lành Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời, thì Ngài vẫn mang danh hiệu Sự Sáng. Vì trong thân vị loài người, Ngài vẫn đem sự tri thức về Thiên Chúa đến cho loài người. Cũng kể từ đây, khi danh từ “sự sáng” được dùng để chỉ về Đức Chúa Jesus thì được viết hoa, vì nó trở thành một danh xưng của Ngài.

Chúng ta đã biết, luật pháp của Thiên Chúa quy định rằng, phải có ít nhất là hai chứng nhân để xác định một sự việc:

Bởi miệng của hai hay ba chứng nhân mỗi lời nói sẽ được thành lập.” (II Cô-rinh-tô 13:1b. Tham khảo Phục Truyền Luật Lệ Ký 19:15).

Giăng Báp-tít là chứng nhân thứ nhất về Sự Sáng. Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh là chứng nhân thứ nhì về Sự Sáng. Khi Giăng Báp-tít công bố lời chứng của mình thì Đấng Thần Linh cũng công bố lời chứng của Ngài trong thần trí của người nghe:

Ấy là Đấng Thần Linh làm chứng, vì Đấng Thần Linh là Lẽ Thật.” (I Giăng 5:6b).

Nhờ đó, bất cứ ai thật lòng tìm kiếm Lẽ Thật thì sẽ nhận biết Lẽ Thật và tin nhận Lẽ Thật. Mà Thiên Chúa là Lẽ Thật; Lời của Thiên Chúa là Lẽ Thật. Kể từ đó, bản thân của người ấy cũng trở thành một chứng nhân cho Sự Sáng. Chính vì thế mà Đức Chúa Jesus Christ đã gọi các môn đồ của Ngài là sự sáng của thế gian, với ý nghĩa, họ phản ánh sự tri thức về Thiên Chúa mà họ đã nhận được từ Ngài:

Các ngươi là sự sáng của thế gian.” (Ma-thi-ơ 5:14a).

Chúng ta chú ý, trong Ma-thi-ơ 5:14a, đại danh từ “các ngươi” là số nhiều để chỉ tất cả các môn đồ của Đấng Christ, nhưng danh từ “sự sáng” lại là danh từ số ít. Điều đó hàm ý, dù có nhiều người phản ánh sự tri thức về Thiên Chúa nhưng chỉ có một tri thức về Thiên Chúa. Đó là Sự Sáng Thật. Ma-thi-ơ 5:14a có nghĩa là: các ngươi là sự phản ánh sự tri thức thật về Thiên Chúa cho thế gian. Phản ánh sự tri thức về Thiên Chúa có nghĩa là vừa rao giảng về tri thức ấy vừa sống theo tri thức ấy để người khác cũng nhận biết về Thiên Chúa.

Thực tế, suốt gần hai ngàn năm qua, chính những môn đồ của Đức Chúa Jesus Christ vẫn sốt sắng, đem sự tri thức về Thiên Chúa đến cho nhiều người trong thế gian. Khiến cho ngày nay, hầu hết mọi người trong thế gian đều nghe biết đến Thiên Chúa và Tin Lành Cứu Rỗi. Việc còn lại là mỗi người đã nghe biết, mỗi người đã được soi sáng, có bằng lòng tiếp nhận Sự Sáng hay không. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn mà Thiên Chúa đã ban cho loài người.

Chính Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời cũng làm chứng về Đức Chúa Jesus Christ, khi xác nhận, Ngài là “Con Yêu Dấu” (Ma-thi-ơ 3:17; 17:5).

Sứ Đồ Giăng cũng khẳng định, Giăng Báp-tít không phải là Sự Sáng, mà ông chỉ là chứng nhân của Sự Sáng.

Vậy, chúng ta cần hiểu rằng, khi danh từ “Sự Sáng” dùng cho Đức Chúa Jesus thì hàm ý, Ngài là Nguồn Sáng. Còn khi dùng cho bất cứ ai khác, như khi Đức Chúa Jesus dùng cho các môn đồ của Ngài, thì hàm ý, người ấy phản chiếu Đấng Christ, rao truyền sự tri thức về Thiên Chúa mà Ngài đã ban cho họ.

9 Ngài hằng là Sự Sáng Thật, Đấng đến trong thế gian, soi sáng mỗi người.

Tất cả các đại danh từ “Ngài” được dùng trong Giăng đoạn 1 đều chỉ về Thiên Chúa trong thân vị Ngôi Lời; và Thiên Chúa trong thân vị loài người, mang tên Jesus.

Thiên Chúa Ngôi Lời hằng là Sự Sáng Thật vì Ngài là Đấng hằng giãi bày về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cách trung thực. Trong Sáng Thế Ký đoạn 1, chúng ta đã đọc thấy, sự giãi bày ý muốn của Thiên Chúa bằng bảy lời phán của Ngài đã khiến cho các sự không thành có, trong công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa.

Sự Sáng Thật chỉ có thể là Thiên Chúa. Vì không ai khác có thể hiểu biết Thiên Chúa bằng chính Thiên Chúa.

Thánh Kinh cho chúng ta biết, Sa-tan tự giả dạng thành sứ giả của Sự Sáng. Nghĩa là: Sa-tan tự giả dạng làm sứ giả rao truyền về Thiên Chúa nhưng thực tế, Sa-tan rao truyền về nhiều Thiên Chúa giả, nhiều Jesus Christ giả, nhiều linh giả, và nhiều Tin Lành giả (II Cô-rinh-tô 11:4).

Và chẳng lạ gì, vì chính Sa-tan tự giả dạng thành thiên sứ của Sự Sáng.” (II Cô-rinh-tô 11:14).

Khắp thế gian, có hàng tỉ người tin nhận sự sáng giả trong các tôn giáo tự xưng là thờ phượng Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ. Gần đây nhất, chúng ta thấy, có Giáo Hội Đức Chúa Trời Mẹ, với tên chính thức trong tiếng Việt là “Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới” (World Mission Society Church of God). Giáo hội này phong cho một người đàn ông Nam Hàn tên là Ahn Sahng-hong vừa là Đức Chúa Trời, vừa là Đấng Christ, vừa là Đức Thánh Linh. Sau khi Ahn Sahng-hong qua đời thì mộ bia lại ghi ông là Tiên Tri Ê-li [1]. Giáo hội này còn phong cho một người đàn bà Nam Hàn làm “Đức Chúa Trời Mẹ”. Bà tên là Jang Gil Ja, có hai con và ly dị chồng để theo giáo hội. Giáo Hội Đức Chúa Trời Mẹ xưng nhận Ahn Sahng-hong là An-pha và Jang Gil Ja là Ô-mê-ga trong Khải Huyền 22:13 [2]. Giáo Hội Đức Chúa Trời Mẹ do Ahn Sahng-hong thành lập vào năm 1964 tại Nam Hàn. Theo thống kê, vào năm 2008 giáo hội này đã có một triệu tín đồ. Vào năm 2017 đã có hơn 7.000 nhà thờ trong 150 quốc gia [3], [4]. Giáo hội này bị cấm hoạt động tại Việt Nam.

Thiên Chúa Ngôi Lời là “Đấng đến trong thế gian, soi sáng mỗi người”, nghĩa là Ngài giãi bày về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho mỗi người. Nhóm chữ “mỗi người” hàm ý, bất cứ người nào có tấm lòng tìm kiếm Thiên Chúa. Vì chỉ có những ai xin thì mới được, những ai tìm thì mới gặp:

Vì, bất cứ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì nó sẽ được mở.” (Ma-thi-ơ 7:8; Lu-ca 11:10).

Sự giãi bày đó trực tiếp từ chính Ngài, khi Ngài còn bước đi trong thân vị loài người trên đất; hoặc qua khải tượng, chiêm bao, sau khi Ngài đã thăng thiên, như trường hợp của Sứ Đồ Phao-lô. Sự giãi bày đó cũng bao gồm cách gián tiếp qua sự rao giảng và nếp sống của những môn đồ của Ngài. Khi những môn đồ của Đức Chúa Jesus Christ rao giảng về Thiên Chúa và Tin Lành thì chính Ngài cũng cùng làm việc với họ (Mác 16:20).

10 Ngài hằng ở trong thế gian, và thế gian đã thực hữu bởi Ngài, nhưng thế gian đã chẳng biết Ngài.

Động từ “hằng ở” trong câu 10 được dùng với thời quá khứ vẫn tiếp diễn. Mệnh đề “Ngài hằng ở trong thế gian” hàm ý, từ khi Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người trong thế gian thì Ngài vẫn tiếp tục ở trong thế gian. Sự hằng ở của Ngài trong thế gian bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn thuộc thể và giai đoạn thuộc linh. Giai đoạn thuộc thể là từ khi Ngài được sinh ra làm người cho tới khi Ngài thăng thiên. Giai đoạn thuộc linh là từ khi Ngài thăng thiên cho tới khi Ngài tái lâm trên đất vào cuối Kỳ Tận Thế. Chính Ngài xác nhận:

Vậy, hãy đi! Các ngươi hãy khiến cho muôn dân trở nên môn đồ của Ta. Hãy báp-tem họ vào trong danh của Đức Cha, của Đức Con, và của Đức Thánh Linh, dạy họ giữ hết thảy mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và này, Ta ở với các ngươi luôn cho đến tận thế. A-men!” (Ma-thi-ơ 28:19-20).

Danh từ “thế gian” (G2889) được dùng trong câu này với ý nghĩa là cư dân của đất. Muôn dân trên đất đã thực hữu bởi Ngài. Vì Ngài là Đấng đã sáng tạo loài người và ban cho loài người năng lực sinh sản. Thế nhưng, muôn dân trên đất đã không nhận biết Ngài, dù Ngài đã đến và vẫn ở lại trong thế gian. Ngay cả khi Ngài tự bày tỏ về chính Ngài thì cũng chỉ có một số ít người tin nhận Ngài. Thực tế, Ngài đã bị loài người giết, vì đã tự bày tỏ chính Ngài.

11 Ngài đã đến với những sự thuộc về Ngài nhưng những sự thuộc về Ngài đã chẳng tiếp nhận Ngài.

Mệnh đề “những sự thuộc về Ngài” trong câu 11 hàm ý, muôn dân trên đất. Mục đích của Thiên Chúa khi dựng nên loài người là để tìm kiếm một dòng dõi thánh thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời, là toàn thể công trình sáng tạo của Thiên Chúa:

Chẳng phải Ngài chỉ làm ra một loài người dù hơi linh của Ngài là dư dật sao? Vì sao chỉ làm ra một? Ấy là để tìm một dòng dõi thánh.” (Ma-la-chi 2:15a).

Tôn vinh Đức Chúa Trời và Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta. Bởi lòng thương xót lớn của Ngài mà Ngài khiến cho chúng ta được tái sinh vào trong sự trông cậy sống, qua sự sống lại từ trong những kẻ chết của Đức Chúa Jesus Christ, vào trong cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, và không suy tàn, được để dành trong các tầng trời cho các anh chị em, là những người bởi đức tin, nhờ năng lực của Thiên Chúa giữ gìn cho sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ cuối cùng!” (I Phi-e-rơ 1:3-5).

Ai thắng sẽ hưởng cơ nghiệp mọi sự. Ta sẽ là Đức Chúa Trời của người và người sẽ là con cái của Ta.” (Khải Huyền 21:7).

Sự loài người không vâng phục Thiên Chúa đã khiến cho tội lỗi vào trong thế gian. Tội lỗi làm phân rẽ loài người khỏi Thiên Chúa, khiến loài người mất đi địa vị làm con cái của Thiên Chúa, không còn được quyền thừa hưởng cơ nghiệp của Ngài. Chính vì thế mà Thiên Chúa phải nhập thế làm người, rao giảng về Thiên Chúa và sự cứu rỗi của Thiên Chúa cho những ai có lòng ăn năn, muốn quay về với Thiên Chúa. Và cũng chính Thiên Chúa thi hành sự cứu chuộc loài người, bằng sự Thiên Chúa trong thân vị loài người chịu chết để gánh thay mọi án phạt của tội lỗi trên loài người. Nhờ đó, ai tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài thì được tha tội, được làm cho sạch tội, được dựng nên mới, và được ban cho địa vị làm con cái của Đức Chúa Trời, thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời. Cơ nghiệp của Đức Chúa Trời là Vương Quốc Đời Đời của Đức Chúa Trời.

Tiếc thay, có quá nhiều người trong thế gian vốn thuộc về Ngài nhưng lại không tin nhận Ngài. Họ vốn thuộc về Ngài, vì họ thực hữu bởi Ngài. Họ không tin nhận Ngài, vì họ muốn sống theo ý riêng, thỏa mãn những sự ham muốn tội lỗi. Thậm chí, có những người đã tiếp nhận Ngài, nhưng sau đó, lại chối bỏ Ngài. Vì họ không thể chịu khổ vì danh Ngài, hoặc vì họ ham muốn những tiện nghi và những sự vui thú bất chính trong đời này. Phần lớn trong số họ là những người kiêu ngạo và tự yêu bản thân của họ trên mọi sự.

12 Nhưng những ai đã tiếp nhận Ngài thì Ngài đã ban cho họ, tức là những ai tin vào danh của Ngài, quyền trở nên những con cái của Thiên Chúa.

Bất cứ những ai đã tiếp nhận Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân vị loài người, tức là tin vào danh Jesus Christ của Ngài, thì họ được Ngài ban cho quyền trở nên con cái của Đức Chúa Trời, tức là con cái của Thiên Chúa. Danh Jesus có nghĩa: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Đấng Cứu Rỗi. Danh Christ có nghĩa: Đấng được Đức Chúa Trời ban cho chức vụ, thẩm quyền, năng lực để làm thành ý muốn của Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi loài người.

Động từ “tiếp nhận” (G2983) có nghĩa là đưa tay ra nhận lấy, làm sở hữu, mang theo mình để sử dụng. Tiếp nhận Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân vị loài người có nghĩa là nhận rằng, Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Rỗi của mình; hoàn toàn tin và vâng theo mọi lời phán dạy của Ngài; mãi mãi ở bên Ngài, liên kết với Ngài như nhánh nho gắn với gốc nho; và vui hưởng mọi ơn phước từ Ngài. Trong đó, ơn lớn thứ nhất là ơn được cứu rỗi; và ơn lớn thứ nhì là được làm con cái của Thiên Chúa, được hưởng cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời.

Trong khi động từ “tiếp nhận” được dùng với thời quá khứ bất định để chỉ một hành động đã xảy ra một lần trong quá khứ, thì phân động từ (động từ biến thể được dùng như danh từ) “tin” được dùng với thời hiện tại, hàm ý, hành động tin lúc nào cũng đang xảy ra. Tin vào danh của Ngài là tin vào danh Jesus Christ. Tin vào danh Jesus là tin rằng, Ngài là Thiên Chúa Tự Hữu Hằng Hữu và là Đấng Cứu Rỗi của loài người. Tin vào danh Christ là tin rằng, Ngài là tiên tri rao giảng về Thiên Chúa; Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm dâng chính mạng sống của Ngài lên Đức Chúa Trời, làm của lễ chuộc tội cho loài người; Ngài là vua, cai trị những ai tin nhận Ngài và cai trị Vương Quốc của Đức Chúa Trời.

Danh từ “quyền” (G1849) nói đến quyền lực, bao gồm quyền và khả năng hành động. Quyền trở nên con cái của Thiên Chúa là được sự cho phép và ban cho khả năng để trở nên con cái của Thiên Chúa. Đức Chúa Jesus cho phép những ai tiếp nhận Ngài và tin vào danh Ngài được trở nên con cái của Thiên Chúa và ban cho họ khả năng để trở thành con cái của Thiên Chúa. Một người chỉ có năng lực trở thành con cái của Thiên Chúa, khi người ấy được dựng nên mới và được đổ đầy thánh linh của Thiên Chúa.

Khi Thánh Kinh dùng cách nói “con cái của Đức Chúa Trời” đối với loài người là nhấn mạnh đến sự kiện thân thể xác thịt của những ai tin nhận Tin Lành sẽ được Đức Chúa Trời sinh ra cách mầu nhiệm, như thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus. Điều này sẽ xảy ra trong ngày Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Ngày ấy không còn bao lâu nữa, có thể đến bất kỳ lúc nào. Dựa vào các lời tiên tri mà chúng ta có thể hiểu rằng, ngày ấy sẽ không kéo dài quá năm 2027. Xin đọc bài: “Kỳ Tận Thế và Năm 2027” đã được đăng trên khu mạng kytanthe.net [5]. Dù chúng ta không biết rõ ngày và giờ Đấng Christ đến nhưng chúng ta biết thời kỳ Chúa đến. Vì chính Đức Chúa Jesus Christ đã dạy rằng, chúng ta có thể quan sát các dấu hiệu của các thời kỳ để biết thời kỳ Chúa đến (Ma-thi-ơ 16:3). Các dấu hiệu của thời kỳ Chúa đến đã được chính Ngài tiên tri trong Ma-thi-ơ đoạn 24. Đặc biệt là qua ngụ ngôn về cây vả, tiên tri về sự dân I-sơ-ra-ên sẽ tái lập quốc, là điều đã xảy ra vào ngày 14/05/1948; và sẽ hoàn toàn làm chủ thành Giê-ru-sa-lem, là điều đã xảy ra vào ngày 07/06/1967. Xin đọc bài “Cây Vả I-sơ-ra-ên: Điềm Chúa Đến” trên khu mạng kytanthe.net [6].

Khi Thánh Kinh dùng cách nói “con cái của Thiên Chúa” đối với loài người là nhấn mạnh đến sự kiện loài người được sáng tạo và được tái sinh bởi Ba Ngôi Thiên Chúa.

Danh từ “những con cái” (G5083) được dùng trong Giăng 1:12 bao gồm cả nam lẫn nữ, như Lời Chúa phán dạy:

Ta sẽ làm Cha cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm những con trai và những con gái cho Ta. Chúa Toàn Năng phán.” (II Cô-rinh-tô 6:18).

Danh từ “con cái” (G5207) trong Khải Huyền 21:7 có nghĩa đen là con trai nhưng nghĩa bóng là con được quyền hưởng cơ nghiệp. Theo phong tục của dân I-sơ-ra-ên, chỉ con trai mới được quyền hưởng cơ nghiệp của cha. Vì thế, khi Thánh Kinh dùng danh từ này để gọi chung con dân của Chúa thì nhấn mạnh đến địa vị làm con được hưởng cơ nghiệp của họ, không phân biệt nam nữ. Vì thế, chúng tôi chọn dịch là “con cái”. Ngoài ra, ngữ pháp tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp của Thánh Kinh dùng danh từ giống đực số nhiều để gọi chung một nhóm toàn là giống đực hoặc một nhóm lẫn lộn giống đực và giống cái.

13 Những người ấy đã được sinh ra chẳng bởi các dòng máu, cũng chẳng bởi ý muốn của xác thịt, cũng chẳng bởi ý muốn của người nào, nhưng bởi ý muốn của Thiên Chúa.

Những người ấy” là những người đã tiếp nhận Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân vị loài người, đã tin vào danh Jesus Christ của Ngài. Họ đã được Đức Chúa Jesus Christ tái sinh bản ngã là linh hồn của họ (II Cô-rinh-tô 5:17), đã được Đấng Thần Linh tái sinh thân thể thiêng liêng là tâm thần của họ (Giăng 3:6), đã được Đức Chúa Trời thánh hóa thân thể xác thịt hiện tại của họ (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13; Giu-đe câu 1). Trong ngày Đức Chúa Jesus Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, Đức Chúa Trời sẽ tái sinh thân thể xác thịt của họ, hoặc là khiến thân thể ấy sống lại từ trong bụi đất, hoặc là biến hóa thân thể đang sống thành thân thể xác thịt mới, vinh quang, bất tử, như thân thể xác thịt phục sinh của Đấng Christ.

Sự được sinh ra của những người ấy:

  • Chẳng bởi các dòng máu” là chẳng bởi sự di truyền thuộc thể của các dân tộc trong loài người. Nghĩa là chẳng được sinh ra bởi sự kết hợp xác thịt của cha và mẹ trong bất cứ dân tộc nào. Danh từ máu được dùng với hình thức số nhiều để chỉ các dòng dõi của nhiều dân tộc.

  • Chẳng bởi ý muốn của xác thịt” là chẳng bởi ý muốn thuộc thể của lý trí loài người.

  • Cũng chẳng bởi ý muốn của người nào” là cũng chẳng bởi ý muốn bao gồm trong thần trí của loài người.

  • Nhưng bởi ý muốn của Thiên Chúa” là chỉ bởi thánh ý của Ba Ngôi Thiên Chúa mà một người được tái sinh, được dựng nên mới, khi người ấy tiếp nhận Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân vị loài người, tin vào danh Jesus Christ của Ngài, thật lòng ăn năn tội.

Sự một người được sinh ra làm con cái của Thiên Chúa là hoàn toàn thuộc về ý muốn và hành động của Ba Ngôi Thiên Chúa.

14 Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt và đã đóng trại giữa chúng ta, đầy dẫy ân điển và lẽ thật. Chúng tôi đã ngắm xem sự vinh quang của Ngài, sự vinh quang như của Con Một đến từ Cha.

Thiên Chúa trong thân vị Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt là một sự mầu nhiệm; và đã được chính Ngài khẳng định với loài người, qua Sứ Đồ Giăng.

Xác thịt được nói đến ở đây tức là thân thể vật chất của loài người. Có nghĩa là Thiên Chúa đã chịu trở nên loài người, hoàn toàn là một người, như bất cứ ai trong chúng ta.

Động từ “đã tự trở nên” (G1096) được dùng với thời quá khứ bất định, cách trung động, thức chỉ định.

  • Thời quá khứ bất định được dùng để nói đến một việc đã xảy ra.

  • Cách trung động trong tiếng Hy-lạp là hình thức của một động từ được dùng để chỉ sự chủ thể tự hành động và hành động đó tác động vào chính chủ thể.

  • Thức chỉ định được dùng để nói lên một thực tế.

Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt” có nghĩa là Ngôi Lời đã tự mình làm ra hành động trở nên xác thịt và hành động đó là một thực tế, một sự việc đã thực sự xảy ra. Phi-líp 2:7 khẳng định sự kiện Thiên Chúa Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt.

Chúng ta có thể hiểu rằng, Thiên Chúa Ngôi Lời đã tự tạo cho mình hình thể một tế bào xác thịt của loài người. Tiếp theo đó, Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời đã kết hiệp tế bào đó với trứng trong lòng trinh nữ Ma-ri để tạo thành thai nhi. Rồi, Đấng Thần Linh ban năng lực cho sự phát triển của thai nhi. Sau cùng, bà Ma-ri đã sinh ra thân thể xác thịt của Ngài và con người ấy được đặt tên là Jesus.

Ngày tế bào xác thịt của loài người của Thiên Chúa Ngôi Lời được Đức Chúa Trời kết hợp với trứng trong lòng trinh nữ Ma-ri để thai dựng con người Jesus là ngày Đức Chúa Trời đã sinh ra thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus, như chính Thiên Chúa Ngôi Lời đã tiên tri trong Thi Thiên:

Ta sẽ truyền ra về sắc lệnh Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán với Ta: Ngươi là Con của Ta. Ngày nay, Ta đã sinh ra Ngươi.” (Thi Thiên 2:7; tham khảo Hê-bơ-rơ 1:5).

Ngày bà Ma-ri sinh ra con người Jesus là ngày Đức Chúa Trời sai Con của Ngài từ trong lòng trinh nữ Ma-ri vào trong thế gian (Giăng 3:17).

Không hề có chuyện Đức Chúa Trời sinh ra Ngôi Lời và Ngôi Lời được Đức Chúa Trời sai từ thiên đàng vào trong thế gian. Lẽ thật là: Ngôi Lời tự trở nên xác thịt, được Đức Chúa Trời sinh ra làm người trong lòng trinh nữ Ma-ri, và được trinh nữ Ma-ri sinh ra trong thế gian. Sự Đức Chúa Jesus được sinh ra trong thế gian chính là sự Đức Chúa Trời sai Ngài vào trong thế gian. Như sự Giăng Báp-tít được sinh ra trong thế gian cũng được gọi là được Đức Chúa Trời sai ông đến thế gian. Chỉ thân vị loài người của Ngôi Lời được gọi là Con của Đức Chúa Trời và được sinh ra bởi loài người. Nhưng thân vị Thiên Chúa của Ngài hằng có và hằng là bình đẳng với Đức Chúa Trời, với Đấng Thần Linh.

Vì Ngài là Thiên Chúa tự mình trở nên xác thịt, chấp nhận được sinh ra bởi một người nữ, là bà Ma-ri, nên bà Ma-ri là mẹ xác thịt của con người xác thịt Jesus. Nhưng bà Ma-ri không thể là mẹ của Thiên Chúa như giáo lý của Công Giáo dạy. Thiên Chúa có từ trước vô cùng, còn bà Ma-ri chỉ là loài thọ tạo do chính Thiên Chúa dựng nên.

Mặc dù con người Jesus cũng chính là Thiên Chúa nhưng trước khi Ngài hoàn thành công cuộc cứu rỗi loài người, Ngài phải được sinh ra, lớn lên, và sống như một con người. Ngài phải tạm gác lại mọi uy quyền và năng lực của Thiên Chúa. Thánh Kinh ghi rõ:

Đấng thực hữu trong hình thể của Thiên Chúa, nhưng chẳng coi sự bình đẳng của mình với Thiên Chúa là sự nên nắm giữ. Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, nhận lấy hình thể của tôi tớ, và trở nên ở trong sự giống như loài người; được tìm thấy trong thể trạng của một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, đến nỗi chết trên cây thập tự. [Thể trạng của loài người là bản thể lẫn bản tính của loài người, bao gồm: thể chất, ngoại hình, cảm giác và cảm xúc, ý tưởng, thái độ, hành động, nếp sống…]” (Phi-líp 2:6-8).

Từ trước vô cùng, Ngài thực hữu trong hình thể của Thiên Chúa vì Ngài là Thiên Chúa. Khi thời điểm tới, Ngài đã từ bỏ các đặc tính và đặc quyền của Thiên Chúa để trở nên một người, hoàn toàn là một người trên mọi phương diện. Chỉ sau khi Ngài hoàn thành công cuộc cứu rỗi nhân loại, thân thể xác thịt loài người của Ngài sống lại từ trong những kẻ chết, thì khi ấy, trọn vẹn đặc tính và đặc quyền của Thiên Chúa mới được Ngài lấy lại. Và kể từ đó, thân thể xác thịt loài người của Ngài vẫn là thân thể xác thịt loài người nhưng lại hành động với mọi đặc tính và đặc quyền của Thiên Chúa. Vì thân vị Thiên Chúa và thân vị loài người của Ngài đã nên một cách mầu nhiệm, cho đến vĩnh cửu.

Mệnh đề “đã đóng trại giữa chúng ta” hàm ý, Ngài đã sống giữa loài người chúng ta trong cuộc sống tạm bợ trên đất. Thánh Kinh cho biết, đời sống của loài người trên đất chỉ là tạm bợ, như khách lữ hành:

Hết thảy họ đã chết trong đức tin, chưa nhận những lời hứa, nhưng trông thấy chúng từ xa, được bắt phục và vui nhận chúng; xưng mình là khách lạ và người ở nhờ trên đất.” (Hê-bơ-rơ 11:13).

Người I-sơ-ra-ên rất quen với nếp sống du mục, ở trong lều trại. Đức Chúa Trời còn ban cho họ Lễ Lều Trại để ghi nhớ sự họ lang thang 40 năm trong đồng vắng, vì bội nghịch Thiên Chúa; đồng thời, cũng nhắc cho họ nhớ, đời sống của loài người trên đất, sau khi tội lỗi vào trong thế gian, chỉ là đời sống tạm.

Sự kiện Ngôi Lời đã đóng trại giữa chúng ta nói lên sự Thiên Chúa đã nhập thế làm người để chia xẻ mọi buồn vui trong cuộc sống với loài người. Ngài chia xẻ mọi cảm xúc và hoàn cảnh của loài người, kể cả chia xẻ kinh nghiệm trước áp lực của những sự cám dỗ và kinh nghiệm gánh lấy án phạt của tội lỗi. Ngài kinh nghiệm sự chết thuộc thể khi thân thể xác thịt của Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá. Ngài kinh nghiệm sự chết thuộc linh, là sự bị phân rẽ khỏi Đức Chúa Trời, khi Ngài mang án phạt thay cho loài người. Đó là lúc Ngài đã kêu lên thảm thiết: “Đức Chúa Trời của tôi ơi! Đức Chúa Trời của tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46; Mác 15:34).

Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân vị loài người đầy dẫy ân điển và lẽ thật. Ân điển bao gồm mọi sự ban cho tốt lành từ Thiên Chúa. Lẽ thật là chính Thiên Chúa và mọi lời phán ra của Ngài. Trong Đức Chúa Jesus Christ, loài người nhận được tất cả những sự ban cho tốt lành của Thiên Chúa. Trong Đức Chúa Jesus Christ, loài người có được sự hiểu biết về Thiên Chúa, về mọi ý muốn của Thiên Chúa dành cho loài người, và được sống bởi Lời của Thiên Chúa.

Thiên Chúa Ngôi Lời đã trở nên một người như chúng ta, sống giữa loài người chúng ta, như bất cứ ai trong chúng ta. Tuy nhiên, theo văn mạch, đại danh từ “chúng ta” trong câu này cũng hàm ý chỉ riêng về Sứ Đồ Giăng và con dân Chúa đồng thời với ông. Vì tiếp theo đó, ông nói đến kinh nghiệm được nhìn ngắm Ngài.

Sự vinh quang mà Giăng và các môn đồ khác của Chúa đã nhìn ngắm vừa là sự vinh quang chiếu sáng trên núi hóa hình, vừa là tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính thể hiện trong đời sống của Đấng Christ, qua mọi cử chỉ, lời nói, và hành động của Ngài.

Mệnh đề: “sự vinh quang như của Con Một đến từ Cha” hàm ý, dù là sự vinh quang chiếu ra ánh sáng chói lòa trên núi hóa hình hay sự vinh quang thể hiện qua các đức tính của Ngài, thì cũng đều là trọn vẹn và tuyệt đối, chỉ có thể có được từ một người là Con của Đức Chúa Trời, không hề phạm tội.

Danh từ “Con Một” được dùng ở đây vì vào thời điểm ấy, Đức Chúa Jesus là người duy nhất được Đức Chúa Trời sinh ra. Khi có nhiều người tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời tái sinh, thì Đức Chúa Jesus trở thành Con Đầu Lòng:

Vì những ai Ngài đã biết trước thì Ngài cũng đã định sẵn để giống như hình ảnh của Con Ngài, để Con ấy là Con đầu lòng trong nhiều anh chị em cùng Cha.” (Rô-ma 8:29).

Xin đọc thêm bài “Hỏi & Đáp: Thần Tính, Con của Đức Chúa Trời, Con Một và Con Đầu Lòng” trên khu mạng: timhieutinlanh.com [7].

Không phải là Thiên Chúa Ngôi Lời hiện ra trong hình dạng của một người như cách các thiên sứ hiện ra với loài người. Cũng không phải là Thiên Chúa Ngôi Lời ngự vào trong thân thể xác thịt của một người nào đó. Nhưng Thiên Chúa Ngôi Lời thật sự đã tự mình trở nên xác thịt, được thai dựng, được sinh ra, lớn lên, và sống trong thân thể xác thịt của loài người, trong một thân vị loài người, với tên gọi Jesus và danh xưng Christ, làm Chúa của muôn loài thọ tạo. Đức Chúa Jesus Christ hoàn toàn là Thiên Chúa nhưng cũng hoàn toàn là người. Thân vị Thiên Chúa của Ngôi Lời đã hoàn toàn hiệp một với thân vị loài người của Ngài. Bởi đó, Ngài có thể làm Đấng Trung Bảo giữa Thiên Chúa và loài người:

Vì có một Thiên Chúa và có một Đấng Trung Bảo của Thiên Chúa và của loài người: Người Christ Jesus!” (I Ti-mô-thê 2:5).

Trung bảo” có nghĩa là đứng giữa để bảo chứng và bảo lãnh cho hai hay nhiều bên kết giao ước với nhau. Bảo chứng là bảo đảm mọi sự trình bày và cam kết của mỗi bên là chân thật. Bảo lãnh là nhận lãnh trách nhiệm nếu có bên nào không hoàn thành bổn phận, như đã cam kết trong giao ước.

Đấng trung bảo của Thiên Chúa cần hiểu biết rõ về Thiên Chúa, về tình yêu và ý muốn của Thiên Chúa dành cho loài người, để bày tỏ các lẽ thật ấy cho loài người. Vì thế, đấng trung bảo của Thiên Chúa phải là Thiên Chúa.

Đấng trung bảo của loài người phải là một người trọn vẹn, không phạm tội, có khả năng hiểu rõ thánh ý của Thiên Chúa và được phép đến gần Thiên Chúa để thay cho loài người kết giao ước với Thiên Chúa.

Đấng trung bảo giữa Thiên Chúa và loài người phải cùng một lúc vừa là Thiên Chúa vừa là loài người. Vì thế, Thiên Chúa Ngôi Lời đã nhập thế làm người để trở nên Đấng Trung Bảo của Thiên Chúa và của loài người.

Vì chỉ có một Đấng Trung Bảo của Thiên Chúa và của loài người, nên mọi giao dịch giữa Thiên Chúa và loài người phải qua Đấng Trung Bảo ấy. Thiên Chúa chỉ có thể bày tỏ chính Ngài và ban ơn cứu chuộc cho loài người qua Đấng Trung Bảo. Loài người chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa và nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa qua Đấng Trung Bảo.

Cảm tạ Thiên Chúa vì tình yêu và ân điển vô lượng vô biên của Ngài đã ban cho loài người chúng ta, mà Thiên Chúa Ngôi Lời đã tự trở nên xác thịt để làm Đấng Cứu Rỗi của chúng ta và làm Đấng Trung Bảo giữa Thiên Chúa và loài người.

Cảm tạ Đức Chúa Trời, Cha Yêu Thương ở trên trời của chúng ta, vì Ngài đã nhận chúng ta làm những con trai và những con gái của Ngài, ban cho chúng ta cơ nghiệp đời đời của Ngài.

Cảm tạ Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta, vì Ngài đã ban cho chúng ta được kết hiệp làm một với Ngài, trở thành chi thể của Ngài cách mầu nhiệm, cho đến vĩnh cửu.

Cảm tạ Đức Thánh Linh, Thần Lẽ Thật, vì Ngài đã giúp cho chúng ta hiểu biết Lời của Thiên Chúa, ban cho chúng ta dư dật năng lực của Thiên Chúa để chúng ta vui sống trong tình yêu và ân điển của Thiên Chúa.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
02/09/2022

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf!

[1] https://www.examiningthewmscog.com/ahnsahnghongs-tombstone-says-the-prophet-elijah-not-jesus/

[2] https://www.examiningthewmscog.com/who-is-zahng-gil-jah/

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/World_Mission_Society_Church_of_God

[4] Xem trong tiếng Việt

[5] https://kytanthe.net/067-ky-tan-the-va-nam-2027/

[6] https://kytanthe.net/060-cay-va-i-so-ra-en-diem-chua-den/

[7] https://timhieutinlanh.com/hoi-dap-than-tinh-con-cua-duc-chua-troi-con-mot-va-con-dau-long/

Karaoke Thánh Ca: “Con Xin Đón Nhận Tình Ngài”
https://karaokethanhca.net/con-xin-don-nhan-tinh-ngai/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.