Chú Giải I Cô-rinh-tô 04:14-21 Lời Khuyên về Sự Vâng Phục

4,161 views

Nguồn: https://youtu.be/qReOw6PLtaY

Chú Giải I Cô-rinh-tô 4:14-21
Lời Khuyên về Sự Vâng Phục

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

I Cô-rinh-tô 4:14-21

14 Tôi viết những điều này, chẳng phải để làm hổ thẹn các anh chị em, nhưng để khuyên bảo các anh chị em như các con yêu dấu của tôi vậy.

15 Bởi vì, dù cho các anh chị em có hàng vạn người giám hộ trong Đấng Christ nhưng chẳng có nhiều cha. Vì trong Đấng Christ Jesus, tôi đã bởi Tin Lành mà sinh ra các anh chị em.

16 Vậy, tôi khuyên các anh chị em: Hãy là những người bắt chước tôi!

17 Vì cớ đó, tôi đã sai Ti-mô-thê, là con yêu dấu của tôi và là người trung tín trong Chúa, đến với các anh chị em. Người sẽ nhắc lại cho các anh chị em nhớ các đường lối của tôi trong Đấng Christ, như tôi dạy dỗ khắp nơi trong các Hội Thánh.

18 Nhưng có mấy kẻ kiêu ngạo nghĩ rằng, tôi sẽ không đến với các anh chị em nữa.

19 Nhưng, nếu Chúa muốn, tôi sẽ sớm đến với các anh chị em, và tôi sẽ biết, chẳng phải lời nói của những kẻ kiêu ngạo đó mà là năng lực của họ.

20 Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời chẳng bởi lời nói mà bởi năng lực.

21 Các anh chị em muốn gì? Muốn tôi sẽ đến với các anh chị em bằng roi hay bằng tình yêu và thần trí nhu mì?

Sau khi trình bày cho con dân Chúa tại Cô-rinh-tô hiểu rõ về phẩm chất của những người giảng Tin Lành và của những người giảng dạy Lời Chúa chân thật, Phao-lô đã có lời khuyên cho họ. Ông khuyên họ hãy hiểu rằng, họ đã được ông dùng Tin Lành để sinh ra họ vào trong Hội Thánh của Chúa. Vì thế, Phao-lô mong họ bắt chước ông, sống một đời sống mới trong Đấng Christ, một đời sống không còn vì chính mình, mà vì Chúa và Hội Thánh của Chúa. Sự bắt chước Phao-lô chính là sự vâng phục ông mà sống theo gương của ông, sống theo những lời giảng dạy của ông.

14 Tôi viết những điều này, chẳng phải để làm hổ thẹn các anh chị em, nhưng để khuyên bảo các anh chị em như các con yêu dấu của tôi vậy.

Mặc dù Phao-lô có những lời nghiêm khắc trong thư nhưng đó là sự nghiêm khắc cần thiết để con dân Chúa tại thành Cô-rinh-tô nhận thức tình trạng nguy hiểm của họ. Vì sau khi tin Chúa một thời gian, thay vì học Lời Chúa để sống theo Lời Chúa thì họ đã sống theo bản năng của xác thịt, mà gây ra những sự ganh tị, tranh cãi, và chia rẽ trong Hội Thánh (I Cô-rinh-tô 3:3). Lời lẽ nghiêm khắc của Phao-lô không phải để sỉ nhục họ. Ai là người dám sỉ nhục Hội Thánh của Chúa? Vì thế, dù con dân Chúa tại Cô-rinh-tô có vì những lời quở trách tỏ tường của Phao-lô mà hổ thẹn thì đó cũng không phải là Phao-lô có ý làm cho họ bị hổ thẹn. Nếu không quở trách tỏ tường thì khó mà làm cho họ thức tỉnh. Những gì Phao-lô làm cho họ là vì ông yêu họ. Có nhiều người vì yêu, không muốn nói ra những lời khiến cho người mình yêu cảm thấy hổ thẹn, bối rối, khó chịu. Nhưng tình yêu thật là bằng mọi cách và chịu trả mọi giá để giúp cho người mình yêu tránh sự phạm tội, phạm lỗi, và nếu họ lỡ phạm thì giúp họ sửa đổi ngay. Lời Chúa đã dạy:

“Một lời quở trách tỏ tường hơn là yêu thương giấu kín.” (Châm Ngôn 27:5).

Hơn nữa, sự phạm tội, phạm lỗi của một người trong Hội Thánh ảnh hưởng chung đến cả Hội Thánh. Vì mỗi người là một chi thể trong Hội Thánh. Hãy tưởng tượng, một cái giằm đâm vào bất cứ một chi thể nào trong thân thể của chúng ta thì có phải cả thân thể đều bị ảnh hưởng hay không? Cho dù cái giằm nhỏ đến đâu, sự đau nhức do nó gây ra vẫn ảnh hưởng đến toàn thân thể.

Trong xã hội cũng như trong Hội Thánh vẫn có những người lợi dụng khuyết điểm hay sự lầm lỗi của người khác để vừa cố ý làm nhục người có lỗi vừa tự nâng cao mình lên. Nhưng trong xã hội cũng như trong Hội Thánh vẫn có những người vì tình yêu chân thật, sẵn sàng nói lên những khuyết điểm của người mà họ quan tâm, chỉ với một mục đích duy nhất là để giúp người có lỗi sửa lỗi và trở nên tốt lành. Nếu lúc nào chúng ta cũng ghi nhớ rằng, mỗi anh chị em cùng đức tin là chi thể cùng một thân với chúng ta, và thân ấy tức là thân thể của Đấng Christ, là Hội Thánh; thì chúng ta sẽ không bao giờ có ý lấn lướt anh chị em của mình, không bao giờ có ý muốn làm cho anh chị em của mình hổ thẹn, và nhất là không bao giờ có ý muốn xem mình là đáng tôn trọng hơn các anh chị em của mình.

Lúc Phao-lô viết thư I Cô-rinh-tô thì ông vào khoảng 58 tuổi. Có lẽ trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô có một số người cùng lứa tuổi với ông hoặc lớn tuổi hơn ông. Nhưng Phao-lô đã xem họ như là những đứa con của ông. Lời khuyên bảo của ông dành cho họ như là lời khuyên bảo mà ông dành cho các con của ông. Đây không phải chỉ là cách nói ví von mà đây là cảm nhận của Phao-lô và của bất cứ ai được Chúa giao cho công việc chăm sóc thuộc linh của người khác mà có tấm lòng yêu thương, bảo vệ bầy chiên của Chúa. Trong các mối quan hệ của loài người, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là một mối quan hệ sâu đậm nhất về phía cha mẹ đối với con cái. Bản năng yêu thương, chăm sóc, bảo vệ con cái đã khiến cho bậc cha mẹ sẵn sàng hy sinh cho con và luôn tìm cầu những điều tốt đẹp nhất cho con. Dĩ nhiên, bản tính tội lỗi của loài người đã làm cho tình yêu của cha mẹ dành cho con cái bị băng hoại. Vì thế, thường khi bậc cha mẹ sẵn sàng làm ra những việc tội lỗi, miễn sao đem lại ích lợi cho con của mình. Chỉ có con dân chân thật của Chúa mới có năng lực vừa yêu thương, chăm sóc, bảo vệ con cái, vừa giữ cho mình và con cái không phạm các điều răn của Chúa. Tình yêu chân thật của cha mẹ dành cho con cái khiến cho cha mẹ biết theo Lời Chúa mà nghiêm khắc kỷ luật con cái, từ khi chúng còn thơ ấu.

15 Bởi vì, dù cho các anh chị em có hàng vạn người giám hộ trong Đấng Christ nhưng chẳng có nhiều cha. Vì trong Đấng Christ Jesus, tôi đã bởi Tin Lành mà sinh ra các anh chị em.

Vào thời của Phao-lô, nhiều nô lệ vốn là người có học trong các quốc gia bị đế quốc La-mã đánh chiếm. Những người như vậy được các nhà giàu có mua về làm người giám hộ cho các con trai của họ. Danh từ “người giám hộ” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh là người phụ trách giám sát và dạy dỗ các con trai của chủ cho đến khi chúng trưởng thành. Người giám hộ cũng có thể là người được thuê mướn. Người giám hộ, dù là nô lệ hay người làm thuê, là người được chủ giao cho toàn quyền dạy dỗ và sửa phạt trên các con trai của chủ. Nói cách khác, người giám hộ toàn quyền thay thế cha của những đứa trẻ được đặt dưới quyền giám hộ của họ. Phao-lô dùng danh từ này để chỉ về những trưởng lão được Chúa giao cho nhiệm vụ chăn dắt con dân Chúa trong từng địa phương. Bổn phận của những trưởng lão là giám sát và dạy dỗ con dân Chúa trong Hội Thánh địa phương của mình để họ được hiểu biết Lời Chúa và sống theo Lời Chúa. Khi cần thì các trưởng lão có quyền quở trách, sửa trị.

Một Hội Thánh địa phương có thể có nhiều trưởng lão chăn dắt. Một con dân Chúa có thể được nhiều người chăn dắt. Nhưng mỗi con dân Chúa chỉ có một người là người đầu tiên đưa họ đến với lẽ thật của Chúa để họ thật sự được tái sinh vào trong Nước Trời. Người ấy đã dùng Tin Lành của Đức Chúa Trời để sinh ra họ. Họ có thể nghe ai đó giảng Tin Lành và tin nhận Tin Lành nhưng vẫn chưa được tái sinh, vì chưa hiểu rõ lẽ thật của Tin Lành. Chỉ đến khi họ được một ai đó hoặc được Đức Thánh Linh trực tiếp khai sáng để họ hiểu thấu ý nghĩa của Tin Lành rồi thật sự ăn năn, gớm ghét tội, từ bỏ tội, quyết tâm sống thánh khiết và chết thánh khiết cho Chúa, thì khi ấy họ mới được tái sinh. Vẫn có người được tái sinh ngay khi họ vừa tin nhận Tin Lành nhưng cũng có rất nhiều người chỉ được tái sinh sau khi họ tin nhận Tin Lành một thời gian khá lâu. Vấn đề là do nơi tấm lòng khao khát mong muốn được thoát tội và sống thánh khiết; tấm lòng khao khát được hiểu biết Lời Chúa để sống đúng theo Lời Chúa của mỗi người.

Khi chúng ta nói đến Tin Lành thì rất dễ để cho chúng ta nghĩ rằng, Tin Lành là tin tức tốt lành về sự Đức Chúa Trời yêu thương loài người nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là Đức Chúa Jesus làm của lễ chuộc tội cho loài người, bằng cách Đức Chúa Jesus bị đóng đinh cho đến chết trên thập tự giá. Bất cứ ai thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus thì người ấy được cứu rỗi. Được cứu rỗi là được cứu ra khỏi sức mạnh của tội lỗi, vì được Đức Chúa Jesus Christ rửa sạch bản tính tội nên không còn chiều theo sự cám dỗ của tội lỗi mà phạm tội. Được cứu rỗi còn là được cứu ra khỏi hậu quả của tội lỗi, vì đã được Đức Chúa Trời tha tội và xưng là người công bình. Tuy nhiên, đó chỉ là phương diện thứ nhất của Tin Lành, là phương diện được cứu rỗi.

Nhiều người chỉ biết đến phương diện thứ nhất của Tin Lành khi họ tin nhận Tin Lành. Đối với họ, họ tin Thiên Chúa có thật và họ tin rằng, Ngài ban sự cứu rỗi cho loài người qua Đức Chúa Jesus Christ. Họ biết họ có tội và họ muốn được cứu rỗi. Vì thế, họ sẵn sàng tin nhận Tin Lành để được cứu rỗi. Nhưng vì họ không hiểu biết hai phương diện còn lại của Tin Lành nên họ đã không được tái sinh và đức tin của họ chết đi khi họ gặp thử thách hoặc cám dỗ trong đời sống. Đức tin của họ ví như hạt giống rơi trên vùng đất có đá, dù đâm chồi lớn lên nhưng không thể bám rễ, không thể chịu đựng sự thử thách để rèn luyện đức tin khiến cho đức tin bị chết. Hoặc đức tin của họ ví như hạt giống rơi vào vùng đất có gai góc, dù đâm chồi lớn lên nhưng rồi bị sự lo lắng của đời này hoặc sự ham muốn giàu có khiến cho đức tin bị chết.

Phương diện thứ nhì của Tin Lành là phương diện được tái sinh. Được tái sinh là được Đức Chúa Trời làm cho mới lại bản ngã, tức là linh hồn; được Đức Thánh Linh làm cho mới lại thân thể thiêng liêng, tức là tâm thần; được Đức Chúa Jesus làm cho mới lại phần thân thể vật chất, tức là xác thịt. Hiện nay, linh hồn và tâm thần của mỗi con dân Chúa đã được dựng nên mới; nhưng phần xác thịt thì chỉ tạm thời được thánh hóa để trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa và là công cụ làm ra những sự công bình cho Đức Chúa Trời. Trong ngày Đức Chúa Jesus Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian thì phần xác thịt mới được tái sinh qua sự biến hóa thân thể xác thịt của những người đang sống, và qua sự phục sinh thân thể xác thịt của những người đã chết.

Phương diện thứ ba của Tin Lành là phương diện được thánh hóa. Được thánh hóa là được Đức Thánh Linh ban cho đầy dẫy thánh linh. Thánh linh là năng lực đến từ Thiên Chúa để có thể hiểu biết về Thiên Chúa, hiểu biết Lời của Thiên Chúa là Thánh Kinh, và để sống thánh khiết theo Lời Chúa. Thánh linh còn là thẩm quyền đến từ Thiên Chúa để rao giảng Tin Lành và cầm quyền trên các tà linh. Thánh linh còn là các ân tứ để hoàn thành tốt những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho mỗi con dân Chúa.

Nguyên nhân chính khiến cho nhiều người tin Chúa, tin nhận Tin Lành, nhưng chưa được tái sinh là vì họ chưa thật sự ăn năn tội; và tội lớn nhất, khó bỏ nhất là tội kiêu ngạo, tự ái không đúng. Họ có thể tin Chúa hàng nhiều chục năm, sinh hoạt trong Hội Thánh thật hoặc trong các tổ chức giáo hội mang danh Hội Thánh hàng chục năm nhưng vẫn chưa được tái sinh. Thậm chí, họ còn là những người mang các chức vụ trong Hội Thánh. Không ít người mang các bằng cao học, tiến sĩ Thần học. Không ít người là những người đứng đầu trong các tổ chức giáo hội. Khi chúng ta đối chiếu các thống kê về số người tin Chúa trên thế giới hiện nay với lời phán của Đức Chúa Jesus Christ, tiên tri về tình trạng của Hội Thánh, khi Ngài đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, thì chúng ta thấy, thật là đáng sợ:

“Ta nói với các ngươi, Ngài sẽ vội vàng làm sự bênh vực họ. Nhưng khi Con Người đến, Ngài sẽ tìm thấy đức tin trên đất chăng?” (Lu-ca 18:8).

Thống kê cho biết, vào năm 2015, trên thế giới có khoảng 2.300.000.000 người xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ. Con số hai tỷ ba trăm triệu chiếm gần 1/3 dân số thế giới. Dân số thế giới vào tháng 12 năm 2019 vào khoảng 7.750.000.000 [2]. Nói cách khác, cứ mỗi ba hay bốn người trên thế giới thì có một người xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ. Thế nhưng khi Đấng Christ đến thì không có bao nhiêu người thật sự tin Ngài và sống như Ngài đã sống. Lời Chúa dạy:

“Ai nói: Tôi biết Ngài! Mà không giữ các điều răn của Ngài, là người nói dối, lẽ thật không ở trong người ấy. Nhưng ai giữ lời Ngài, thì tình yêu của Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy. Bởi đó, chúng ta biết chúng ta ở trong Ngài. Ai nói mình ở trong Ngài, thì người ấy cũng phải bước đi như chính Ngài đã bước đi.” (I Giăng 2:4-6).

Chỉ có những ai sống như Đấng Christ đã sống thì người ấy mới thật sự là môn đồ của Đấng Christ, mới thật sự là chi thể của thân thể Đấng Christ, mới thật sự ở trong Hội Thánh của Đấng Christ, mới thật sự là người đã được tái sinh.

Sống như Đấng Christ đã sống là trước hết giữ trọn các điều răn của Đức Chúa Trời, như Đức Thánh Linh đã dùng Sứ Đồ Giăng viết tiếp như sau:

“Hỡi các anh chị em cùng Cha! Tôi chẳng viết điều răn mới cho các anh chị em, mà là điều răn cũ các anh chị em đã có từ lúc ban đầu. Điều răn cũ là lời mà các anh chị em đã nghe từ lúc ban đầu. Nhưng, tôi cũng viết cho các anh chị em điều răn mới, là điều chân thật trong Ngài và trong các anh chị em; vì sự tối tăm đã qua rồi, và sự sáng thật đang chiếu sáng. Ai nói mình ở trong sự sáng mà ghét anh chị em cùng Cha của mình, thì đến giờ vẫn còn ở trong sự tối tăm.” (I Giăng 2:7-9).

Điều răn cũ tức là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời như đã chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17 và lập lại trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:7-21. Điều răn mới chính là mệnh lệnh Đức Chúa Jesus Christ đã truyền cho những ai tin nhận Ngài:

“Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: Các ngươi hãy yêu lẫn nhau. Như Ta đã yêu các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy yêu lẫn nhau thế ấy.” (Giăng 13:34).

Vì thế, bất cứ ai cố tình không vâng giữ bất cứ điều răn nào trong Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời hoặc cố tình không vâng giữ điều răn mới của Đức Chúa Jesus Christ thì người ấy là người nói dối và lẽ thật không ở trong người ấy.

Vì Phao-lô là người dùng lẽ thật trọn vẹn của Tin Lành giúp cho con dân Chúa thành Cô-rinh-tô được tái sinh mà Đức Thánh Linh đã thần cảm cho ông viết rằng: Vì trong Đấng Christ Jesus, tôi đã bởi Tin Lành mà sinh ra các anh chị em.

Một số người Công Giáo dựa vào câu này để nói rằng, các linh mục có quyền xưng “cha” với tín đồ trong giáo hội của họ. Nhưng họ đã hiểu câu viết của Phao-lô ngoài văn mạch.

  • Phao-lô không nói rằng, tất cả những ai ở trong chức vụ trưởng lão hay thậm chí ở trong chức vụ giám mục, người chăn và người dạy đều có quyền xưng “cha” với con dân Chúa.
  • Phao-lô nói rằng, dù có nhiều người chăn dắt, dạy dỗ con dân Chúa tại Cô-rinh-tô nhưng ông là người đã dùng lẽ thật của Tin Lành để khiến họ được tái sinh. Vì thế, chẳng khác nào ông là cha của họ về phương diện họ được tái sinh thuộc linh.
  • Dù Phao-lô nói rằng, ông là cha của họ về phương diện thuộc linh, vì ông đã khiến cho họ được tái sinh nhưng ông không xưng “cha” với họ và cũng không buộc họ phải gọi ông bằng “cha”. Lời dạy của Đức Chúa Jesus Christ rất rõ ràng:

“Cũng đừng gọi người nào trên đất là cha của các ngươi; vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 23:9).

Đức Chúa Jesus Christ không nói về cha thuộc thể là người đã sinh ra thân thể xác thịt của chúng ta nhưng Ngài nói về Cha thuộc linh, là Đấng đã sáng tạo chúng ta. Vì thế, Phao-lô không xưng cha với con dân Chúa và cũng không yêu cầu họ gọi ông bằng danh xưng cha với ý nghĩa là cha thuộc linh.

Nói tóm lại, người đầu tiên dùng Lời Chúa khai sáng thần trí của chúng ta, đưa chúng ta đến sự hoàn toàn đầu phục Chúa, được Chúa tái sinh, chính là bậc cha hay mẹ thuộc linh của chúng ta, dù cho có khi người ấy nhỏ tuổi hơn chúng ta rất nhiều. Người ấy yêu thương và chăm sóc thuộc linh của chúng ta như cha mẹ thuộc thể chăm sóc con cái. Chúng ta kính trọng và vâng phục người ấy như con cái thuộc thể kính trọng và vâng phục cha mẹ. Nhưng chúng ta không gọi người ấy bằng danh xưng cha hoặc mẹ theo ý nghĩa cha mẹ thuộc linh. Vì rõ ràng, mệnh lệnh của Chúa không cho phép chúng ta làm như vậy.

Cũng có những người được tái sinh mà không bởi một người nào, như trường hợp của Sứ Đồ Phao-lô:

“Hỡi các anh chị em cùng Cha! Tôi tuyên bố với các anh chị em rằng, Tin Lành đã được tôi giảng, chẳng phải bởi loài người; vì tôi không nhận và cũng không học nó bởi một người nào, nhưng đã nhận lấy bởi sự mạc khải của Đức Chúa Jesus Christ.” (Ga-la-ti 1:11-12).

Chúng ta cần hiểu rằng:

  • Về phương diện thuộc thể, mỗi người trong chúng ta chỉ có một người cha xác thịt. Nhưng chúng ta có thể có nhiều cha nuôi và có thể có nhiều người được chúng ta xem như cha, vì chúng ta tôn kính họ và biết ơn họ như cha ruột của mình.
  • Về phương diện thuộc linh, mỗi người trong chúng ta chỉ có một Cha Thiêng Liêng là Đức Chúa Trời vì chúng ta được thực hữu bởi ý muốn của Ngài và được tái sinh bởi Ngài. Nhưng chúng ta cũng có khi có một người cha (hay mẹ) thuộc linh, là người đã dùng lẽ thật của Lời Chúa để khiến cho chúng ta thật sự tan vỡ cõi lòng, ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đấng Christ, nhờ đó, chúng ta được tái sinh. Tuy vậy, chúng ta không nhất thiết phải gọi người ấy bằng cha (hay mẹ); và có khi người ấy nhỏ tuổi hơn chúng ta nhiều.
  • Một người có thể là cha (hay mẹ) thuộc linh của nhiều người nhưng không có quyền buộc những người ấy gọi mình bằng cha (hay mẹ) với ý nghĩa là cha (hay mẹ) thuộc linh.

Chúng tôi nghĩ rằng, mối tương quan mật thiết giữa chúng ta và người dùng lẽ thật của Tin Lành khiến cho chúng ta được tái sinh sẽ là mối quan hệ còn đến đời đời. Tương tự như vậy là mối quan hệ của chúng ta với các anh chị em cùng đức tin trong Hội Thánh địa phương hoặc mối quan hệ gia đình của chúng ta với những người cùng đức tin. Chúa đã đặt để chúng ta gần bên nhau trong cuộc đời này thì Ngài cũng sẽ có chương trình cho chúng ta được gần nhau, cùng nhau cai trị một phần nào đó trong vương quốc của Ngài, trong cõi đời đời.

16 Vậy, tôi khuyên các anh chị em: Hãy là những người bắt chước tôi!

Phao-lô là một tấm gương sống đối với con dân Chúa tại thành Cô-rinh-tô. Trong suốt 18 tháng ông sống bên cạnh họ, dạy dỗ họ, họ tận mắt nhìn thấy nếp sống của ông. Vì thế, ông thẳng thắn khuyên họ, hãy là những người bắt chước ông. Vào gần cuối thư, ông khuyên họ một lần nữa:

“Các anh chị em hãy bắt chước tôi cũng như tôi bắt chước Đấng Christ!” (I Cô-rinh-tô 11:1).

Phao-lô đã được Đấng Christ mạc khải chính Ngài cho ông, như ông đã viết trong Ga-la-ti 1:11-12. Bởi đó, ông nhận biết Ngài để có thể sống như Ngài đã sống. Ngày nay, chúng ta đã có trọn vẹn Lời Chúa ghi chép cho chúng ta trong Thánh Kinh. Nếu chúng ta đọc và suy ngẫm Lời Chúa thì chúng ta cũng sẽ được Chúa giãi bày về chính Ngài để chúng ta nhận biết Ngài và sống như Ngài đã sống. Nhưng vào thời của Phao-lô thì sự giãi bày về Tin Lành, tức Thánh Kinh phần Tân Ước, chưa được ghi chép trọn vẹn thành sách, nên con dân Chúa phải trông cậy vào các sứ đồ là những người đã nhận biết Chúa qua sự trực tiếp nghe Ngài giảng dạy, khi Ngài chưa về thiên đàng, hoặc do Chúa trực tiếp mạc khải như Phao-lô. Con dân Chúa thời ấy nhìn vào các sứ đồ của Chúa để bắt chước họ mà sống như Chúa. Vì họ là những người bắt chước Chúa. Trong thư Phi-líp, Phao-lô còn kêu gọi:

“Hỡi các anh chị em cùng Cha! Hãy trở nên những người bắt chước với tôi, và nhắm vào những người bước đi như vậy, như các anh chị em có chúng tôi làm gương.” (Phi-líp 3:17).

Tất cả các trưởng lão trong Hội Thánh đều phải là những tấm gương sống cho con dân Chúa noi theo. Mỗi trưởng lão đều có thể như Phao-lô, kêu gọi con dân Chúa trong Hội Thánh bắt chước nếp sống của mình mà không ngại miệng.

“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời ở giữa vòng các anh chị em. Hãy chăm sóc chẳng phải vì bị ép buộc mà là bởi vui lòng; chẳng phải vì lợi dơ bẩn mà là sẵn lòng; chẳng phải như hành xử quyền cai trị cơ nghiệp nhưng để làm gương tốt cho bầy.” (I Phi-e-rơ 5:2-3).

Nhờ đó mà mỗi con dân Chúa thật sự là sự sáng của thế gian, như Lời Chúa đã phán và được ghi lại trong Ma-thi-ơ 5:14.

17 Vì cớ đó, tôi đã sai Ti-mô-thê, là con yêu dấu của tôi và là người trung tín trong Chúa, đến với các anh chị em. Người sẽ nhắc lại cho các anh chị em nhớ các đường lối của tôi trong Đấng Christ, như tôi dạy dỗ khắp nơi trong các Hội Thánh.

“Vì cớ đó” là vì cớ Phao-lô muốn con dân Chúa tại Cô-rinh-tô thật sự bắt chước nếp sống của ông.

Phao-lô gọi Ti-mô-thê là con yêu dấu của ông vì ông xem Ti-mô-thê như con ruột của ông. Ông xác nhận Ti-mô-thê là người trung tín trong Chúa. Người trung tín trong Chúa là người tin nhận Chúa, sống đúng theo Lời Chúa, và làm trọn những việc lành mà Chúa giao phó. Sống đúng theo Lời Chúa là vâng giữ trọn vẹn các điều răn của Thiên Chúa, gồm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, điều răn mới của Đức Chúa Jesus Christ, và điều răn nên thánh của Đức Thánh Linh.

Phao-lô gửi Ti-mô-thê đến Cô-rinh-tô để Ti-mô-thê nhắc lại cho con dân Chúa tại Cô-rinh-tô những gì mà Phao-lô đã giảng dạy cho họ. Vào thời ấy, những lời giảng dạy chưa được ghi chép hay ghi âm, thu hình như thời nay. Vì thế, đối với những ai không có lòng tìm hiểu và muốn ghi nhớ thì sẽ dễ quên. Cách duy nhất để giúp họ nhớ lại là phải giảng lại cho họ.

Nhóm chữ “các đường lối của tôi trong Đấng Christ” có nghĩa là những giáo lý về Đấng Christ do tôi giảng dạy và nếp sống của tôi y theo sự giảng dạy của tôi. Sự giảng dạy và nếp sống của Phao-lô lúc nào và ở đâu cũng là đúng theo sự mà Đấng Christ đã mạc khải cho ông. Trong thực tế, Phao-lô là người được Chúa dùng nhiều hơn ai hết để đem lẽ thật trọn vẹn của Tin Lành đến với Hội Thánh qua mọi thời đại, từ thời đại của Phao-lô cho đến thời đại của chúng ta. Những sự giảng dạy của ông đã được ghi chép thành sách và được gọi là Lời Chúa, vì là do Chúa mạc khải cho ông và thần cảm cho ông viết ra.

18 Nhưng có mấy kẻ kiêu ngạo nghĩ rằng, tôi sẽ không đến với các anh chị em nữa.

19 Nhưng, nếu Chúa muốn, tôi sẽ sớm đến với các anh chị em, và tôi sẽ biết, chẳng phải lời nói của những kẻ kiêu ngạo đó mà là năng lực của họ.

Mấy kẻ kiêu ngạo được nói đến ở đây chính là những kẻ cầm đầu các phe nhóm trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô. Rất có thể họ cũng là những người tin Chúa qua sự giảng Tin Lành của Phao-lô. Lời trước đó trong câu 8, có lẽ là Phao-lô muốn ám chỉ họ:

“Các anh chị em được no đủ rồi. Các anh chị em được giàu có rồi. Các anh chị em đã cai trị như vua mà không cần chúng tôi. Tôi thật mong rằng, các anh chị em đã cai trị như vua để chúng tôi cũng đồng trị với các anh chị em!” (I Cô-rinh-tô 4:8).

Những kẻ ấy nghĩ rằng, Phao-lô bận rộn với công tác truyền giáo ở những nơi khác nên ông sẽ không quay lại Cô-rinh-tô. Nhưng Chúa là Đấng biết rõ nhu cầu của từng Hội Thánh địa phương và Ngài luôn can thiệp đúng lúc. Sau khi thư I Cô-rinh-tô được gửi đi vào mùa đông năm 56 thì có lẽ Phao-lô đã trở lại Cô-rinh-tô vào mùa xuân năm 57. Trong lần đó, lòng Phao-lô rất là đau buồn và nặng nề vì sự phản nghịch trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô. Vì có một kẻ cầm đầu cuộc chống nghịch Phao-lô mà các trưởng lão khác trong Hội Thánh không dám lên tiếng bênh vực Phao-lô. Phao-lô trở lại Ê-phê-sô, viết một lá thư quở trách nặng nề, sai Tít mang đến Cô-rinh-tô. Lá thư đó đã mang lại kết quả tốt, Hội Thánh tại Cô-rinh-tô ăn năn và loại trừ kẻ cầm đầu phản nghịch ra khỏi Hội Thánh. Nhận được tin vui từ Tít, Phao-lô viết thư mà ngày nay chúng ta gọi là thư II Cô-rinh-tô vào mùa hè năm 57. Cuối năm 57, Phao-lô một lần nữa trở lại thăm Hội Thánh tại Cô-rinh-tô.

Những kẻ kiêu ngạo khoe mình là người gây dựng Hội Thánh nhưng việc làm của họ là phá hoại Hội Thánh. Họ không có năng lực gây dựng Hội Thánh. Vì năng lực gây dựng Hội Thánh là năng lực đến từ Chúa. Người kiêu ngạo là người bị Đức Chúa Trời chống cự thì làm sao người ấy có năng lực của Chúa để gây dựng Hội Thánh (Châm Ngôn 3:34; Gia-cơ 4:6)?

20 Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời chẳng bởi lời nói mà bởi năng lực.

Vương Quốc của Đức Chúa Trời bắt đầu với Hội Thánh. Hội Thánh là những người cùng với Đấng Christ cai trị Nước Trời. Trong Hội Thánh luôn có những kẻ phạm tội, như Khải Huyền đoạn 2 và đoạn 3 đã cho chúng ta biết. Nhất là những kẻ kiêu ngạo muốn đứng đầu Hội Thánh. Những kẻ ấy nhiều khi giỏi về hùng biện, dễ dàng dùng lời nói để thu hút người khác, dẫn dụ người khác đi theo đường lối của họ. Nhưng thực tế cho thấy, họ không hề có năng lực gây dựng Hội Thánh. Nơi nào có họ thì nơi ấy có ganh tị, tranh cãi, và phe đảng.

Vương Quốc của Đức Chúa Trời được xây dựng bằng năng lực của Thiên Chúa và được gây dựng cũng bằng năng lực của Thiên Chúa qua lẽ thật của Lời Chúa là Thánh Kinh. Chỉ có những ai thật lòng rao giảng Lời Chúa cách chân chính thì những người ấy mới có năng lực xây dựng và gây dựng Hội Thánh.

21 Các anh chị em muốn gì? Muốn tôi sẽ đến với các anh chị em bằng roi hay bằng tình yêu và thần trí nhu mì?

Chúng ta thấy, trong gia đình, nếu con cái ngoan hiền thì sẽ được cha mẹ yêu thương và cư xử dịu dàng; nếu con cái ngỗ nghịch thì sẽ bị cha mẹ nghiêm khắc quở trách và sửa phạt. Trong Hội Thánh cũng vậy, nếu con dân Chúa vâng phục lời dạy của các trưởng lão, sống thánh khiết theo Lời Chúa thì sẽ được các trưởng lão yêu thương, cư xử dịu dàng; nhưng nếu con dân Chúa ngỗ nghịch, không vâng phục các trưởng lão, không sống theo Lời Chúa thì sẽ bị các trưởng lão nghiêm khắc quở trách và sửa phạt.

Phao-lô dùng chữ “roi” để nói đến sự quở trách, sửa phạt; dùng chữ “tình yêu và thần trí nhu mì” để nói đến sự yêu thương và lối cư xử dịu dàng. Câu hỏi của Phao-lô nhắc cho con dân Chúa tại Cô-rinh-tô nhớ, sự vui mừng hay sự đau buồn trong mối quan hệ giữa ông và họ là do nơi thái độ của họ. Rất tiếc, thư I Cô-rinh-tô và chuyến viếng thăm của Phao-lô tiếp theo đó đã không đủ để cho con dân Chúa tại Cô-rinh-tô ăn năn. Phải đến khi Phao-lô bỏ đi và viết thêm một lá thư khác, quở trách cách nặng nề, thì con dân Chúa tại Cô-rinh-tô mới thức tỉnh và loại trừ kẻ cầm đầu sự phản nghịch trong Hội Thánh. Ngày nay chúng ta không còn có được nội dung lá thư quở trách đó của Phao-lô. Rất có thể, trong lá thư đó Phao-lô đã nói đến việc dứt thông công tập thể Hội Thánh tại Cô-rinh-tô. Một hình thức cất chân đèn như được nói đến trong Khải Huyền 2:5.

Trước sau, Phao-lô viết cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô ít nhất là bốn lá thư. Lá thứ nhất và thứ ba không còn được lưu lại. Vì thế lá thứ nhì và thứ tư được gọi là I Cô-rinh-tô và II Cô-rinh-tô. Vì lý do gì Đức Thánh Linh đã không bảo tồn hai lá thư kia để đưa vào Thánh Kinh thì chúng ta không biết. Mong rằng, một ngày kia, trong thiên đàng chúng ta sẽ được biết.

Sự vâng phục những người chăn dắt linh hồn của chúng ta là bông trái của sự nhu mì, khiêm nhường và là sự ích lợi lớn cho chúng ta. Lời Chúa dạy:

“Hãy vâng lời những người dắt dẫn các anh chị em và chính mình các anh chị em chịu phục họ. Vì họ thức canh về linh hồn của các anh chị em, mà họ phải khai trình, để cho họ làm việc đó với sự vui mừng, mà không phiền lòng. Vì sự phiền lòng ấy chẳng ích lợi cho các anh chị em.” (Hê-bơ-rơ 13:17).

Chẳng những con dân Chúa có bổn phận vâng phục những người chăn dắt mình mà còn có bổn phận vâng phục lẫn nhau:

“Hãy kính sợ Thiên Chúa mà vâng phục nhau.” (Ê-phê-sô 5:21).

“Cũng vậy, các bạn trẻ hãy vâng phục các trưởng lão. Mọi người hãy vâng phục lẫn nhau, mặc cho mình sự khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự những kẻ kiêu ngạo mà ban ơn cho những người khiêm nhường.” (I Phi-e-rơ 5:5).

Chúng ta cũng phải vâng phục những người có quyền trên mình trong xã hội, miễn là sự vâng phục đó không nghịch lại Lời Chúa (Rô-ma 13:1). Nói tóm lại, chỉ cần là một lời nói đúng với Lời Chúa thì chúng ta phải vâng phục, bất kể người nói là ai, vì sự vâng phục của chúng ta là sự vâng phục Chúa, vâng phục ý muốn của Ngài đã được ghi chép rõ ràng trong Thánh Kinh.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
14/12/2019

Ghi Chú

[1] http://worldpopulationreview.com/countries/most-christian-countries/

[2] https://www.worldometers.info/world-population/

Karaoke Thánh Ca: “Cuộc Đời như Cánh Hoa Rơi”
https://karaokethanhca.net/cuoc-doi-nhu-canh-hoa-roi/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: http://www.tt2012.thanhkinhvietngu.net/bible.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.