Chú Giải Công Vụ Các Sứ Đồ 17:01-15 Phao-lô tại Tê-sa-lô-ni-ca và Bê-rê

1,371 views

Youtube: https://youtu.be/BCuKqPVwN7k

44041 Chú Giải Công Vụ Các Sứ Đồ 17:1-15
Phao-lô tại Tê-sa-lô-ni-ca và Bê-rê

    Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Công Vụ Các Sứ Đồ 17:1-15

1 Họ đã đi ngang qua thành Am-phi-bô-li và thành A-bô-lô-ni, vào đến thành Tê-sa-lô-ni-ca, nơi có một nhà hội của người Do-thái.

2 Phao-lô, theo thói quen, đã vào với họ. Trong ba ngày Sa-bát, người đã bàn luận với họ về các đoạn Thánh Kinh.

3 Người đã giải thích và trình bày rằng, Đấng Christ phải chịu thương khó và sống lại từ trong những kẻ chết; và rằng: Đức Chúa Jesus này mà ta rao giảng cho các ngươi là Đấng Christ.

4 Có vài người trong bọn họ đã tin và hiệp với Phao-lô cùng Si-la. Cũng có đám đông lớn những người Hy-lạp tin kính và không ít các phụ nữ đứng đầu trong thành.

5 Nhưng những người Do-thái không tin đã nổi lòng ganh tị, thu nhận mấy kẻ du đãng của đường phố, tụ tập chúng, gây náo loạn thành phố. Chúng đã xông vào nhà của Gia-sôn, tìm họ để đem đến cho dân chúng.

6 Không tìm thấy họ, chúng đã kéo Gia-sôn và mấy anh chị em cùng Cha đến các quan cai trị thành, kêu la: Mấy tên này đã gây loạn thế gian, giờ cũng có đây;

7 mà Gia-sôn đã chứa chấp. Hết thảy các kẻ này làm nghịch các sắc lệnh của Sê-sa, nói rằng, có một vua khác, là Jesus.

8 Chúng đã khích động dân chúng và các quan cai trị thành, khi họ đã nghe các lời ấy.

9 Nhưng khi các quan đã nhận được sự bảo lãnh từ Gia-sôn và các người khác, các quan đã thả họ.

10 Tức thì, trong ban đêm, các anh chị em cùng Cha đã gửi Phao-lô và Si-la đến thành Bê-rê. Khi đến nơi, họ đã đi vào nhà hội của người Do-thái.

11 Những người này là đáng quý hơn những người ở Tê-sa-lô-ni-ca. Họ đã tiếp nhận Lời với mọi sự sẵn sàng của tâm trí, tra xem Thánh Kinh suốt ngày, để xét xem những lời giảng ấy có đúng như vậy hay không.

12 Vậy, thực tế, nhiều người trong số họ đã tin, cùng các phụ nữ sang trọng người Hy-lạp và không ít đàn ông.

13 Nhưng khi những người Do-thái từ thành Tê-sa-lô-ni-ca đã biết rằng, Lời của Đức Chúa Trời đã được giảng bởi Phao-lô tại thành Bê-rê, thì họ đã đến đó để khích động dân chúng.

14 Thế nên, tức thì, các anh chị em cùng Cha đã gửi Phao-lô đi bằng đường biển. Còn Si-la và Ti-mô-thê cứ ở lại đó.

15 Những người phụ trách hành trình cho Phao-lô đã đem người đến thành A-thên. Sau khi nhận lệnh cho Si-la và Ti-mô-thê gấp đến với người, họ đã lên đường.

Bản Đồ Minh Họa Hành Trình Truyền Giáo Lần Thứ Nhì của Phao-lô [1]
Tải Xuống: https://timhieuthanhkinh.com/wp-content/uploads/2022/03/HanhTrinhTruyenGiao_2.png

Trong bài này, chúng ta sẽ học về chặng thứ nhì, trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhì của Phao-lô, từ thành Phi-líp cho đến thành A-thên.

1 Họ đã đi ngang qua thành Am-phi-bô-li và thành A-bô-lô-ni, vào đến thành Tê-sa-lô-ni-ca, nơi có một nhà hội của người Do-thái.

Sau khi rời thành Phi-líp, Phao-lô và các bạn đã đi xuống phía nam của Ma-xê-đoan. Từ Phi-líp đi xuống Am-phi-bô-li thì có thể đi qua Tê-sa-lô-ni-ca. Nhưng Phao-lô và các bạn của ông đã tiếp tục đi xuống A-bô-lô-ni, trước khi đi ngược lên hướng tây bắc để đến Tê-sa-lô-ni-ca. Am-phi-bô-li cách Phi-líp khoảng 53 km; A-bô-lô-ni cách Am-phi-bô-li khoảng 48 km; và Tê-sa-lô-ni-ca cách A-bô-lô-ni khoảng 59 km.

Chúng ta có thể hiểu rằng, Phao-lô không muốn bỏ qua một thành nào trong xứ Ma-xê-đoan, nhưng ông đã không dừng lại để giảng Tin Lành trong hai thành Am-phi-bô-li và A-bô-lô-ni. Chúng ta cũng có thể hiểu rằng, lý do Phao-lô đã không dừng lại để giảng Tin Lành trong hai thành ấy là vì ông không có sự cảm động hay sự thúc giục bởi Đức Thánh Linh. Mặc dù Chúa đã ban cho Phao-lô khải tượng về sự mang Tin Lành Cứu Rỗi đến Ma-xê-đoan nhưng cũng chính Chúa là Đấng tác động trong Phao-lô, để ông vừa muốn vừa làm theo thánh ý của Ngài.

Vì chính Thiên Chúa tác động trong các anh chị em để các anh chị em vừa muốn vừa làm theo ý tốt của Ngài.” (Phi-líp 2:13).

Có lẽ, Chúa sẽ giao cho Hội Thánh tại Phi-líp và tại Tê-sa-lô-ni-ca việc giảng Tin Lành cho dân chúng trong hai thành Am-phi-bô-li và A-bô-lô-ni.

2 Phao-lô, theo thói quen, đã vào với họ. Trong ba ngày Sa-bát, người đã bàn luận với họ về các đoạn Thánh Kinh.

Nhân xưng đại danh từ “họ” trong câu 2 là chỉ về những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo, nhóm hiệp trong nhà hội, nhưng không ngoại trừ những người không thuộc dân I-sơ-ra-ên đến đó, để tìm hiểu về Thiên Chúa mà dân I-sơ-ra-ên thờ phượng. Những người Hy-lạp rất ưa thích biện luận và triết lý, nên vào thời ấy, có nhiều người Hy-lạp tìm đến các nhà hội của người Do-thái, để nghe đọc và nghe giảng Thánh Kinh. Triết học bắt đầu với ngành triết học về tự nhiên vào khoảng năm 600 TCN. Nhưng từ năm 430 TCN tới năm 320 TCN thì ba nhà triết học vĩ đại người Hy-lạp ở thành A-thên đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự suy nghĩ của loài người. Đó là các triết gia: Sô-cra-tét (Socrates), Pla-tô (Plato), và A-rít-tốt (Aristotle).

Phao-lô đã vào trong nhà hội của người Do-thái tại thành Tê-sa-lô-ni-ca và bàn luận với những người đến nhóm hiệp trong nhà hội về các phân đoạn Thánh Kinh Cựu Ước. Vì thời bấy giờ chỉ mới có Thánh Kinh Cựu Ước. Trong các nhà hội của Do-thái thì Thánh Kinh Cựu Ước thường được đọc và giảng giải trong các buổi nhóm vào các ngày Thứ Bảy Sa-bát. Phao-lô và các bạn của ông đã lưu lại Tê-sa-lô-ni-ca ít nhất là hơn hai tuần, để có thể tham dự ba buổi nhóm trong ba ngày Sa-bát.

3 Người đã giải thích và trình bày rằng, Đấng Christ phải chịu thương khó và sống lại từ trong những kẻ chết; và rằng: Đức Chúa Jesus này mà ta rao giảng cho các ngươi là Đấng Christ.

Danh từ Đấng Christ trong tiếng Hy-lạp được dịch từ danh từ Đấng Mê-si-a trong tiếng Hê-bơ-rơ. Đấng Mê-si-a hay Đấng Christ có nghĩa đen là Đấng được Đức Chúa Trời xức dầu, ban cho chức vụ; có nghĩa bóng là Đấng được Đức Chúa Trời đổ đầy thánh linh để cùng lúc làm tiên tri, làm thầy tế lễ, và làm vua trong chương trình cứu chuộc loài người.

Trong chức vụ tiên tri, Đấng Christ bày tỏ về Đức Chúa Trời và Tin Lành Cứu Rỗi của Ngài, là chương trình cứu chuộc loài người ra khỏi sức mạnh và hậu quả của tội lỗi. Sức mạnh của tội lỗi là nó khiến người ta không thể không phạm tội. Hậu quả của tội lỗi là sự chết đời đời, tức là sự đời đời bị xa cách Thiên Chúa và chịu khổ trong hỏa ngục.

Trong chức vụ thầy tế lễ, Đấng Christ là thầy tế lễ thượng phẩm có thể vào tận trong Nơi Rất Thánh ở trên trời để dâng chính mạng sống của Ngài, làm của lễ chuộc tội cho toàn thể nhân loại, một lần đủ cả.

Trong chức vụ vua, Đấng Christ đang cai trị trong lòng những ai tin nhận Tin Lành Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời, sẽ cai trị Vương Quốc Ngàn Năm và Vương Quốc Đời Đời.

Phao-lô đã giảng giải các phân đoạn Thánh Kinh trong Cựu Ước để chứng minh rằng, Đức Chúa Jesus chính là Đấng Mê-si-a, tức là Đấng Christ đã được Đức Chúa Trời hứa trong Thánh Kinh.

Ngày nay, chúng ta đã quá quen thuộc với Thánh Kinh Tân Ước nên chúng ta dễ dàng hiểu biết sự kiện Đức Chúa Jesus chính là Đấng Mê-si-a được hứa trong Thánh Kinh Cựu Ước. Nhưng vào thời của các sứ đồ thì họ chỉ có Thánh Kinh Cựu Ước để dựa vào đó, chứng minh Đức Chúa Jesus là Đấng Mê-si-a, tức là Đấng Christ.

Sau khi Đức Chúa Jesus sống lại, trong lúc Ngài hiện ra và đi đường cùng hai môn đồ của Ngài từ thành Giê-ru-sa-lem về làng Em-ma-út, Ngài đã dùng Thánh Kinh Cựu Ước để giảng cho họ hiểu rằng, toàn bộ Thánh Kinh đều chỉ về Ngài.

Bắt đầu từ Môi-se và hết thảy các tiên tri, Ngài giảng giải cho họ những điều chỉ về Ngài trong cả Thánh Kinh.” (Lu-ca 24:27).

Thật vậy, trong mỗi sách Cựu Ước đều nói về Đức Chúa Jesus. Dưới đây là các câu tiêu biểu trong mỗi sách [2].

  • Sáng Thế Ký 3:15: Đức Chúa Jesus là dòng dõi của người nữ, Đấng giày đạp đầu của con rắn, tức Sa-tan (Ma-thi-ơ 1:18; Lu-ca 10:19).

  • Xuất Ê-díp-tô Ký 12:21: Đức Chúa Jesus là Chiên Con của Lễ Vượt Qua, hy sinh vì chúng ta (I Cô-rinh-tô 5:7).

  • Lê-vi Ký 16:21-22: Đức Chúa Jesus là con dê gánh lấy tội lỗi của loài người (II Cô-rinh-tô 5:21; Giăng 1:29; Hê-bơ-rơ 9:28).

  • Dân Số Ký 21:8: Đức Chúa Jesus bị treo trên cây gỗ như con rắn làm bằng đồng (Giăng 3:14).

  • Phục Truyền Luật Lệ Ký 18:15: Đức Chúa Jesus là tiên tri như Môi-se mà Đức Chúa Trời đã dấy lên (Giăng 7:40; Hê-bơ-rơ 3:2-6).

  • Giô-suê 5:14: Đức Chúa Jesus là tổng tư lệnh quân lực của Đức Chúa Trời (Khải Huyền 19:11-14).

  • Các Quan Xét 6:22: Đức Chúa Jesus là Thiên Sứ của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (Giăng 14:8-10).

  • Ru-tơ 4:6: Đức Chúa Jesus là người thân có quyền chuộc lại chúng ta (I Phi-e-rơ 1:18; Lê-vi Ký 25; Phục Truyền Luật Lệ Ký 25).

  • I Sa-mu-ên 2:10: Đức Chúa Jesus là vua và Đấng Christ, tức là Sừng Cứu Rỗi (Lu-ca 1:69).

  • II Sa-mu-ên 7:12: Đức Chúa Jesus là con của Vua Đa-vít, sẽ làm vua (Ma-thi-ơ 1:1).

  • I Các Vua 8:27: Đức Chúa Jesus là Thiên Chúa ngự trên đất (Giăng 1:14; Giăng 2:19).

  • II Các Vua 4:43: Đức Chúa Jesus là tiên tri hóa bánh ra nhiều như Tiên Tri Ê-li-sê (Mác 6:44).

  • I Sử Ký 17:14: Đức Chúa Jesus là vua cai trị Vương Quốc Đời Đời (Ma-thi-ơ 1:1; Hê-bơ-rơ 6:20; Giăng 1:49).

  • II Sử Ký 9:22: Đức Chúa Jesus trội hơn các vua trên đất về sự khôn sáng, kể cả Vua Sa-lô-môn (Cô-lô-se 2:3; Ma-thi-ơ 12:42).

  • Ê-xơ-ra 9:2: Đức Chúa Jesus là dòng dõi thánh được bảo tồn (Sáng Thế Ký 3:15; Lu-ca 3:23-38).

  • Nê-hê-mi 13:8: Nê-hê-mi làm hình bóng tiêu biểu cho sự Đức Chúa Jesus dẹp sạch Đền Thờ (Mác 11:15-19).

  • Ê-xơ-tê 10:3: Mạc-đô-chê làm hình bóng cho sự Đức Chúa Jesus là người Do-thái bị bách hại nhưng trở nên cao trọng (Ma-thi-ơ 21:42; Khải Huyền 20:4).

  • Gióp 19:25: Đức Chúa Jesus là Đấng Cứu Chuộc Hằng Sống sẽ đứng trên đất (Ê-phê-sô 1:7; Ma-thi-ơ 28:6).

  • Thi Thiên 22:16: Đức Chúa Jesus là Đấng tay chân bị đâm lủng trên thập tự giá (Giăng 20:25).

  • Châm Ngôn 30:4: Đức Chúa Jesus là Đấng đã lên trời rồi lại xuống (Giăng 20).

  • Truyền Đạo 12:11: Đức Chúa Jesus là Đấng Chăn Chiên Duy Nhất (Giăng 10).

  • Nhã Ca 2:4: Tình yêu của Sa-lô-môn dành cho người yêu chẳng khác tình yêu của Đấng Christ dành cho Hội Thánh (Ê-phê-sô 5:25-32).

  • Ê-sai 53:5: Đức Chúa Jesus là Đấng gánh thay hình phạt cho tội lỗi của chúng ta (I Phi-e-rơ 2:24).

  • Giê-rê-mi 23:5: Đức Chúa Jesus là một nhánh công chính ra từ Đa-vít (Ma-thi-ơ 1:1).

  • Ca Thương 2:11: Đức Chúa Jesus sẽ than khóc vì Giê-ru-sa-lem (Lu-ca 19:41).

  • Ê-xê-chi-ên 34:23: Đức Chúa Jesus là người chăn cho chiên của Ngài ăn thức ăn thuộc thể lẫn thuộc linh (I Phi-e-rơ 5:4; Mác 6:42).

  • Đa-ni-ên 9:25: Đức Chúa Jesus là Đấng Mê-si-a, tức là Đấng Christ (Giăng 12:12-13).

  • Ô-sê 11:1: Đức Chúa Jesus là Con của Đức Chúa Trời được gọi ra khỏi xứ Ê-díp-tô (Ma-thi-ơ 2:15).

  • Giô-ên 2:32: Danh của Đức Chúa Jesus là danh mà mọi người sẽ kêu cầu để được cứu rỗi (Rô-ma 10:13; Công Vụ Các Sứ Đồ 2:21).

  • A-mốt 9:11: Đức Chúa Jesus sẽ xây dựng lại Đền Thờ Thiên Chúa cho thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:15-17).

  • Áp-đia 1:21: Đức Chúa Jesus sẽ cai trị Vương Quốc Ngàn Năm (Khải Huyền 11:15).

  • Giô-na 1:17: Tiên Tri Giô-na tiêu biểu cho sự chết và sự sống lại của Đấng Christ (Ma-thi-ơ 12:40).

  • Mi-chê 5:2: Nơi Đức Chúa Jesus được sinh ra đã được tiên tri (Ma-thi-ơ 2:1).

  • Na-hum 1:15: Tin Lành về sự Đức Chúa Jesus cứu chuộc nhân loại là Tin Lành Bình An (Rô-ma 10:15).

  • Ha-ba-cúc 2:4: Đức tin được nói đến là đức tin nơi Đức Chúa Jesus (Rô-ma 1:17; Ga-la-ti 3:11; Hê-bơ-rơ 10:38).

  • Sô-phô-ni 3:15: Đức Chúa Jesus chính là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, là vua của dân I-sơ-ra-ên trong Vương Quốc Ngàn Năm (Khải Huyền 19:16; 20:4).

  • A-ghê 2:23: Đức Chúa Jesus là con cháu của Xô-rô-ba-bên (Ma-thi-ơ 1:12).

  • Xa-cha-ri 9:9: Đức Chúa Jesus cưỡi lừa, đến với tư cách là vua (Giăng 12:14-15).

  • Ma-la-chi 3:1: Đức Chúa Jesus có Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Ngài và Ngài đã thình lình vào trong Đền Thờ (Ma-thi-ơ 3:1-3; Mác 11:15-19).

Cảm tạ Chúa! Ngày nay chúng ta đã có trọn bộ Thánh Kinh, bao gồm Cựu Ước và Tân Ước. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng hiểu về Tin Lành hơn, so với những con dân Chúa vào thời của Đức Chúa Jesus và của các sứ đồ.

4 Có vài người trong bọn họ đã tin và hiệp với Phao-lô cùng Si-la. Cũng có đám đông lớn những người Hy-lạp tin kính và không ít các phụ nữ đứng đầu trong thành.

Trong số những người nhóm hiệp tại nhà hội và nghe Phao-lô giảng giải liên tiếp ba ngày Sa-bát, có một số người I-sơ-ra-ên đã tin nhận Tin Lành. Nhưng có rất nhiều người Hy-lạp có lòng tin kính Chúa và nhiều phụ nữ Hy-lạp đứng đầu tại Tê-sa-lô-ni-ca cũng đã tin nhận Tin Lành. Các phụ nữ Hy-lạp đứng đầu tại Tê-sa-lô-ni-ca có nghĩa là vợ của các viên chức cầm quyền hoặc là chủ nhân các cơ sở thương mãi lớn tại đó. Chúng ta thấy, những người Hy-lạp dễ tin nhận Tin Lành hơn là những người I-sơ-ra-ên. Có lẽ vì họ đã không bị ảnh hưởng nhiều những sự giảng dạy của Do-thái Giáo.

Ngày nay, chúng ta cũng sẽ thấy rằng, những người chưa sinh hoạt trong các giáo hội mang danh Chúa sẽ dễ dàng tiếp nhận các lẽ thật của Thánh Kinh, hơn là những người đã và đang sinh hoạt trong các giáo hội.

5 Nhưng những người Do-thái không tin đã nổi lòng ganh tị, thu nhận mấy kẻ du đãng của đường phố, tụ tập chúng, gây náo loạn thành phố. Chúng đã xông vào nhà của Gia-sôn, tìm họ để đem đến cho dân chúng.

Khi những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo, không tin nhận Tin Lành do Phao-lô rao giảng, thấy có một số người trong bọn họ và nhiều người Hy-lạp, đặc biệt là các phụ nữ sang trọng tin nhận Tin Lành, thì họ đã nổi lòng ganh tị. Họ đã thuê du đãng của đường phố, gây náo loạn trong thành phố, xông vào nhà của Gia-sôn là nơi Phao-lô và các bạn của ông tạm trú. Họ đã định bắt Phao-lô và Si-la đem ra, đấu tố trước công chúng.

Nhân xưng đại danh từ “họ” trong câu này và câu 6 là chỉ về Phao-lô với Si-la. Danh từ “du đãng của đường phố” (G4190 G435 G60) được dùng để chỉ những kẻ gây ra các hành động phạm pháp trên đường phố, như trộm cắp, cướp giựt, hành hung, làm ra những hành vi gây mất trật tự và xâm phạm thuần phong mỹ tục.

Theo Rô-ma 16:21 thì Gia-sôn là một người bà con của Phao-lô, có thể là anh em họ của Phao-lô. Có lẽ vì vậy mà Phao-lô và các bạn của ông đã đến, ở trọ trong nhà của Gia-sôn.

6 Không tìm thấy họ, chúng đã kéo Gia-sôn và mấy anh chị em cùng Cha đến các quan cai trị thành, kêu la: Mấy tên này đã gây loạn thế gian, giờ cũng có đây;

7 mà Gia-sôn đã chứa chấp. Hết thảy các kẻ này làm nghịch các sắc lệnh của Sê-sa, nói rằng, có một vua khác, là Jesus.

Mấy anh chị em cùng Cha” có thể là Lu-ca và Ti-mô-thê cùng những người mới tin nhận Tin Lành đang có mặt tại nhà của Gia-sôn. Nhưng cũng có thể lúc ấy, Phao-lô, Si-la, Lu-ca, và Ti-mô-thê đang đến nhà những người mới tin nhận Tin Lành để thăm họ; cùng lúc, một số người mới tin nhận Tin Lành đã đến nhà của Gia-sôn để gặp Phao-lô và Si-la.

Đám du đãng đã bắt Gia-sôn và các con dân Chúa, kéo đến trước các quan cai trị thành. Danh từ “các quan cai trị thành” (G4173) bao gồm các viên chức trong chính quyền của một thành phố. Lời tố cáo của đám du đãng là theo sự xui khiến của những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo thuê mướn chúng. Danh từ “Sê-sa” được dùng để chỉ chung các hoàng đế của đế quốc La-mã thời bấy giờ.

Tội danh “gây loạn thế gian” hàm ý, gây loạn trong đế quốc La-mã. Thời bấy giờ, danh từ “thế gian” được đồng hóa với danh từ đế quốc La-mã.

Hành động gây loạn trong thế gian là “nói rằng, có một vua khác, là Jesus”. Thật ra, tố cáo như vậy là vô nghĩa, vì lúc bấy giờ vẫn có nhiều vua khác, ngoài hoàng đế La-mã. Thực tế, lúc ấy Vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba được hoàng đế La-mã công nhận tước vị “vua” và ban cho quyền quản lý Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem, quyền phong chức thầy tế lễ thượng phẩm.

8 Chúng đã khích động dân chúng và các quan cai trị thành, khi họ đã nghe các lời ấy.

9 Nhưng khi các quan đã nhận được sự bảo lãnh từ Gia-sôn và các người khác, các quan đã thả họ.

Lời cáo buộc Phao-lô và Si-la làm loạn của đám du đãng đã thật sự làm cho dân chúng và các quan cai trị thành Tê-sa-lô-ni-ca bị khích động. Vì đó là một việc lớn, nếu thật sự trong thành có sự làm loạn. Nhưng khi các quan cai trị thành bình tâm nghe Gia-sôn và các con dân Chúa trình bày sự việc, và đứng ra bảo lãnh rằng, Phao-lô và Si-la không hề làm loạn, thì họ hiểu đám du đãng đã vu khống. Có thể, trong số những người đứng ra bảo lãnh cho Phao-lô và Si-la có những người nổi tiếng tại thành Tê-sa-lô-ni-ca. Vì thế các quan cai trị thành đã trả tự do cho Gia-sôn và các con dân Chúa.

Gần đây, trong Hội Thánh tại Việt Nam, có vài con dân Chúa đã bị người nhà không tin Chúa vu khống với chính quyền rằng, họ theo tà giáo. Khiến cho công an đến làm việc với các con dân Chúa. Nhưng thực tế chứng minh là họ đã bị vu khống. Có trường hợp chính công an đứng ra làm chứng tốt cho con dân Chúa bị tố cáo. Cảm tạ Chúa đã cho phép các sự kiện đó xảy ra để càng có thêm nhiều người trong chính quyền biết đến lẽ thật của Thánh Kinh, qua lời đối đáp của các con dân Chúa bị vu khống và qua các khu mạng của Hội Thánh.

10 Tức thì, trong ban đêm, các anh chị em cùng Cha đã gửi Phao-lô và Si-la đến thành Bê-rê. Khi đến nơi, họ đã đi vào nhà hội của người Do-thái.

11 Những người này là đáng quý hơn những người ở Tê-sa-lô-ni-ca. Họ đã tiếp nhận Lời với mọi sự sẵn sàng của tâm trí, tra xem Thánh Kinh suốt ngày, để xét xem những lời giảng ấy có đúng như vậy hay không.

Dù không bị các quan cai trị thành bắt tội nhưng con dân Chúa đã ngay trong đêm, đưa Phao-lô và Si-la đến thành Bê-rê. Đây là một hành động đúng theo lời Chúa dạy, được ghi lại trong Ma-thi-ơ 10:23: “Khi nào người ta bách hại các ngươi trong thành này, thì hãy trốn qua thành kia”.

Thành Bê-rê cách thành Tê-sa-lô-ni-ca khoảng 80 km về hướng tây nam, nằm trên triền núi phía đông của rặng núi Ô-lim-píc (Olympic). Núi Ô-lim-píc là nơi thế vận hội đầu tiên được tổ chức vào năm 776 TCN.

Khi đến Bê-rê thì Phao-lô cùng các bạn của ông cũng đi vào trong nhà hội của người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo. Vì đó là nơi dễ dàng tiếp xúc những người có lòng tìm kiếm Chúa. Những người theo Do-thái Giáo tại Bê-rê có lòng sốt sắng tìm kiếm lẽ thật, hơn những người theo Do-thái Giáo tại Tê-sa-lô-ni-ca. Họ đã lắng nghe Phao-lô và Si-la giảng, sốt sắng tra xem Thánh Kinh để đối chiếu Lời Chúa với lời giảng mà họ được nghe.

Chúng ta có thể hiểu rằng, những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo tại Bê-rê trước giờ vẫn có lòng sốt sắng đọc Lời Chúa và nghe giảng về Lời Chúa. Nhưng chưa bao giờ họ được nghe ai giảng Thánh Kinh như Phao-lô và Si-la. Vì thế, họ đã suốt ngày tra xem Thánh Kinh để đối chiếu với những gì hai ông giảng dạy.

12 Vậy, thực tế, nhiều người trong số họ đã tin, cùng các phụ nữ sang trọng người Hy-lạp và không ít đàn ông.

Khi tra xem Thánh Kinh, những người theo Do-thái Giáo tại Bê-rê đã nhận biết lẽ thật của Thánh Kinh được Phao-lô và Si-la giảng dạy, nên họ đã tin nhận Tin Lành. Ngoài những người I-sơ-ra-ên, còn có những người Hy-lạp. Trong số những người Hy-lạp ấy lại có nhiều phụ nữ sang trọng. Danh từ “phụ nữ sang trọng” được dùng để gọi những phụ nữ giàu có và quyền thế nhưng có tư cách đáng tôn trọng, theo tiêu chuẩn của xã hội.

13 Nhưng khi những người Do-thái từ thành Tê-sa-lô-ni-ca đã biết rằng, Lời của Đức Chúa Trời đã được giảng bởi Phao-lô tại thành Bê-rê, thì họ đã đến đó để khích động dân chúng.

14 Thế nên, tức thì, các anh chị em cùng Cha đã gửi Phao-lô đi bằng đường biển. Còn Si-la và Ti-mô-thê cứ ở lại đó.

Không bao lâu thì tin tức về sự có nhiều người tại Bê-rê tin nhận Tin Lành đã được loan truyền đến Tê-sa-lô-ni-ca, chỉ cách đó khoảng 80 km. Vì thế, những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo đã từ Tê-sa-lô-ni-ca đi xuống Bê-rê để khích động dân chúng, chống đối Phao-lô. Rất có thể con dân Chúa tại Tê-sa-lô-ni-ca biết được tin ấy, nên đã vội đến Bê-rê báo tin cho Phao-lô và con dân Chúa tại Bê-rê. Con dân Chúa tại Bê-rê lại làm theo lời phán dạy của Đấng Christ, đem Phao-lô lánh sang nơi khác để tránh sự bách hại. Nhưng Si-la và Ti-mô-thê thì cứ ở lại Bê-rê. Vì mục đích của những người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo là chống đối Phao-lô, người rao giảng chính, và cũng có lẽ là người bắt bẻ các lý luận của Do-thái Giáo nhiều nhất.

Chúng ta cần nhớ rằng, Phao-lô từng học Thánh Kinh Cựu Ước với giáo sư Do-thái Giáo danh tiếng nhất thời bấy giờ là Ga-ma-li-ên. Phao-lô cũng từng là thành viên trong Tòa Công Luận. Vì thế, trí thức của Phao-lô về Cựu Ước là đầy dẫy. Khi thêm vào sự khai sáng của Đức Thánh Linh trong Phao-lô thì không một người I-sơ-ra-ên theo Do-thái Giáo nào có thể biện luận thắng được Phao-lô. Vì thế, lòng ganh tị của họ đối với Phao-lô là rất lớn. Mặt khác, có lẽ họ xem Phao-lô là kẻ phản bội Do-thái Giáo để theo cái mà họ gọi là “tà giáo”, nên họ càng căm ghét Phao-lô càng hơn.

15 Những người phụ trách hành trình cho Phao-lô đã đem người đến thành A-thên. Sau khi nhận lệnh cho Si-la và Ti-mô-thê gấp đến với người, họ đã lên đường.

Danh từ “những người phụ trách hành trình” (G2525) trong câu này được dùng để chỉ những người phụ trách toàn bộ việc di chuyển. Có lẽ ông đã đi đường thủy với sự trợ giúp chi phí từ những người Hy-lạp giàu có, tại Bê-rê, là những người mới tin nhận Tin Lành. Sau khi đến A-thên, Phao-lô đã trao cho những người phụ trách việc di chuyển mệnh lệnh yêu cầu Si-la và Ti-mô-thê gấp đến với ông.

Danh từ “lệnh” (G1785) được dùng trong câu này hàm ý là lệnh được viết thành văn. Nghĩa là Phao-lô đã viết một thư ngắn, ra lệnh cho Si-la và Ti-mô-thê phải nhanh chóng đến với ông. Điều này cũng cho chúng ta thấy, trong Hội Thánh, người chăn, trưởng lão có quyền ra lệnh cho con dân Chúa. Dù vậy, Phao-lô đã nhiều lần chọn không dùng quyền để ra lệnh, mà chỉ yêu cầu con dân Chúa làm điều phải làm. Điển hình là Phi-lê-môn câu 8-9.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
19/03/2022

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf!

[1] https://timhieuthanhkinh.com/wp-content/uploads/2022/03/HanhTrinhTruyenGiao_2.png

[2] https://calvarychapel.com/posts/the-best-verse-about-jesus-from-each-old-testament-book

Karaoke Thánh Ca: “Con Xin Dâng Đời Con”
https://karaokethanhca.net/con-xin-dang-doi-con/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.