Chú Giải Ga-la-ti 02:15-21 Loài Người Được Xưng Công Chính bởi Đức Tin Trong Đấng Christ

5,809 views


YouTube: https://youtu.be/TgXrBaoTgtk

904805 Chú Giải Ga-la-ti 2:15-21
Loài Người Được Xưng Công Chính bởi Đức Tin Trong Đấng Christ

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

  • MediaFire: Bấm vào đây
  • OpenDrive: Bấm vào đây

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Ga-la-ti 2:15-21

15 Chúng ta tự nhiên là người Do-thái, không phải là những kẻ có tội trong các dân ngoại,

16 biết rằng, người ta được xưng công chính chẳng phải bởi các việc làm theo luật pháp, trừ khi bởi đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ. Chúng ta đã tin Đức Chúa Jesus Christ, để được xưng công chính bởi đức tin trong Đấng Christ, chứ chẳng bởi các việc làm theo luật pháp. Vì chẳng có xác thịt nào được xưng công chính bởi các việc làm theo luật pháp.

17 Nhưng đang khi chúng ta tìm kiếm sự được xưng công chính trong Đấng Christ, mà chính chúng ta bị xét thấy là những tội nhân, thì chẳng lẽ Đấng Christ là chấp sự của tội lỗi? Chẳng hề như vậy!

18 Vì nếu tôi lập lại những điều tôi đã phá hủy, thì tôi sẽ khiến chính mình thành người phạm pháp.

19 Bởi luật pháp, tôi đã chết, theo luật pháp, để tôi có thể sống cho Thiên Chúa.

20 Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, nên tôi không còn sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Sự sống ấy mà tôi đang sống trong xác thịt, là tôi sống bởi đức tin vào trong Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.

21 Tôi không muốn làm cho ân điển của Đức Chúa Trời ra vô ích; vì nếu bởi luật pháp mà được sự công chính, thì Đấng Christ chịu chết cách vô ích.

Tin Lành là tin tức tốt lành về sự Đức Chúa Trời ban sự cứu rỗi cho nhân loại qua sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Trọng tâm của Tin Lành là: Loài người được Đức Chúa Trời xưng công chính bởi đức tin trong Đấng Christ. Loài người không cần phải làm gì hết, chỉ cần tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, để được tha tội và được làm cho sạch tội, trở nên một người mới và là một người công chính trước Đức Chúa Trời.

Sự cứu rỗi là ân điển của Thiên Chúa và một người được cứu là nhờ có đức tin vào trong sự cứu rỗi ấy:

“Vì nhờ ân điển mà các anh chị em được cứu bởi đức tin. Điều đó không đến từ các anh chị em mà là sự ban cho của Thiên Chúa.” (Ê-phê-sô 2:8).

Tin Lành không phải là tôn giáo, nếu chúng ta hiểu rằng, tôn giáo là phương cách loài người tự giải quyết nan đề tội lỗi theo ý riêng của mình. Không một tôn giáo nào mà không dựa vào công đức riêng của loài người, thay vì dựa vào ân điển của Thiên Chúa, ngay cả trong tôn giáo mang danh Chúa là Cơ-đốc Giáo. Những người Công Giáo dựa vào các sự: tham dự thường xuyên những buổi gọi là “thánh lễ Mi-sa” (Mass); siêng năng tụng các bài kinh, lần chuỗi Mân-côi (Rosary); tích cực bố thí, làm lành; dâng hiến tiền bạc, công sức vào các nhà thờ; thờ lạy các hình tượng gọi là hình Chúa, tượng Chúa, hình Mẹ, tượng Mẹ; kêu cầu bà Ma-ri; và thậm chí tin rằng, sau khi chết có thể tự mình đền tội trong ngục luyện tội! Những người Tin Lành thì dựa vào: sự tích cực rao giảng Tin Lành, đưa dắt được nhiều người gia nhập giáo hội; sốt sắng dâng hiến tiền bạc, của cải cho các mục vụ… Ngoài ra, đặc điểm chung của các giáo hội, giáo phái trong Cơ-đốc Giáo là dựa vào sự trung thành vâng giữ các luật lệ, truyền thống, nghi thức, tín lý của giáo hội, mà hầu hết những sự ấy nghịch lại Thánh Kinh.

Có lẽ, tà giáo đầu tiên xâm nhập Hội Thánh là tà giáo buộc con dân Chúa người ngoại phải vâng giữ các nghi thức thời Cựu Ước là những nghi thức làm hình bóng cho mục vụ của Đức Chúa Jesus Christ trong thời Tân Ước. Điển hình là việc buộc con dân Chúa không phải dân tộc I-sơ-ra-ên phải chịu cắt bì, phải kiêng các thức ăn không tinh sạch thời Cựu Ước, và phải vâng giữ bảy ngày lễ hội thời Cựu Ước. Tà giáo này phát xuất từ sự thiếu hiểu biết ý nghĩa chân thật và sâu nhiệm về Tin Lành. Vào thời của Sứ Đồ Phao-lô, tà giáo này đã lan tràn trong các Hội Thánh tại Ga-la-ti.

Con dân Chúa trong mọi dân tộc đều có thể tự ý chịu cắt bì để việc giữ vệ sinh thân thể được tốt hơn; tự ý kiêng ăn những thức ăn nào họ xét thấy có hại cho sức khỏe; và tự ý kỷ niệm bất cứ ngày lễ hội nào trong Cựu Ước, để chiêm nghiệm ý nghĩa các mục vụ của Đức Chúa Jesus Christ. Nhưng nếu họ dựa vào một hay tất cả các điều ấy để được cứu rỗi, thì việc làm của họ trở thành sự chối bỏ ơn cứu chuộc của Đức Chúa Jesus Christ. Sứ Đồ Phao-lô đã viết thư Ga-la-ti để thức tỉnh các Hội Thánh tại Ga-la-ti trước sự xâm nhập của tà giáo buộc con dân Chúa người ngoại phải chịu cắt bì.

Chúng ta tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa từng câu trong Ga-la-ti 2:15-21 mà Sứ Đồ Phao-lô đã viết, để nhắc lại trọng điểm của Tin Lành: Loài người được xưng công chính bởi đức tin trong Đấng Christ.

Trước hết, chúng ta cần lưu ý rằng, từ câu 15 đến câu 21 có thể là nội dung toàn bộ những gì Phao-lô nói với Phi-e-rơ trước Hội Thánh tại An-ti-ốt, gần bốn năm trước đó, được ông nhắc lại trong khi viết thư Ga-la-ti. Nhưng cũng có thể những gì Phao-lô nói với Phi-e-rơ đã kết thúc ở câu 14. Từ câu 15 trở đi là những gì Phao-lô viết cho con dân Chúa tại Ga-la-ti.

Xét theo văn mạch, chúng ta thấy từ câu 14 sang câu 15 mạch văn không thay đổi (có thay đổi khi qua đoạn 3 câu 1). Xét về bối cảnh khi Phao-lô phản đối Phi-e-rơ thì có mặt những người Do-thái cùng phạm tội giả hình với Phi-e-rơ, và sự việc xảy ra trước cả Hội Thánh tại An-ti-ốt. Vì thế, chúng ta có thể tin rằng, từ câu 15 đến câu 21 là những lời Phao-lô đã nói tại An-ti-ốt, gần bốn năm trước đó, được ông ghi lại vừa để làm lời chứng, vừa để giảng giải cho con dân Chúa tại Ga-la-ti. Vì thế, khi dịch phân đoạn này sang tiếng Việt thì chúng ta phải dùng đại danh từ “chúng ta” thay vì “chúng tôi”.

15 Chúng ta tự nhiên là người Do-thái, không phải là những kẻ có tội trong các dân ngoại,

16 biết rằng, người ta được xưng công chính chẳng phải bởi các việc làm theo luật pháp, trừ khi bởi đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ. Chúng ta đã tin Đức Chúa Jesus Christ, để được xưng công chính bởi đức tin trong Đấng Christ, chứ chẳng bởi các việc làm theo luật pháp. Vì chẳng có xác thịt nào được xưng công chính bởi các việc làm theo luật pháp.

Đại danh từ “chúng ta” được Phao-lô dùng ở đây để chỉ chung: ông, Ba-na-ba, Phi-e-rơ, và những người Do-thái khác đang có mặt trong buổi nhóm ấy tại An-ti-ốt. “Tự nhiên là người Do-thái” có nghĩa là được sinh ra trong chủng tộc Do-thái. Câu: “Không phải là những kẻ có tội trong các dân ngoại” không có nghĩa là người Do-thái không phải là những người có tội như những người trong các dân tộc không phải là Do-thái. Ý nghĩa của câu này là:

Dù chúng ta, những người Do-thái, là những tội nhân, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh quang của Đức Chúa Trời (Rô-ma 3:23); nhưng chúng ta không giống những tội nhân trong các dân ngoại, vì chúng ta biết Thiên Chúa và có lời hứa về sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta có Tin Lành của Đức Chúa Trời và chúng ta đã tin nhận Tin Lành.

Chính nhờ có Tin Lành và tin nhận Tin Lành mà Phao-lô và các người Do-thái khác đã biết rằng, một người được Đức Chúa Trời xưng là công chính, không phải vì người ấy vâng giữ trọn vẹn các điều răn theo sự đòi hỏi của luật pháp NẾU sự vâng giữ ấy không bởi đức tin vào trong sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ.

Bởi vì cho dù một người có cố gắng hết sức để vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời đến đâu, thì người ấy cũng có lần vi phạm, nhất là sự vi phạm trong lòng. Chỉ cần một lần phạm tội thì một người lập tức trở thành tội nhân trước Đức Chúa Trời; và hậu quả của tội lỗi, tiền công của tội lỗi là sự chết, tức là sự đời đời bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa. Chỉ bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ mà một người mới có thể được tha tội, được sạch tội, được tái sinh thành một người mới với đầy dẫy thánh linh của Thiên Chúa, để có thể vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa. Một người chỉ cần tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ mà không cần phải làm ra bất cứ một điều gì khác, cũng không nhờ bất cứ một điều gì khác. Chỉ sau khi đã được tái sinh, đã được Đức Chúa Trời xưng là một người công chính (vì không còn chịu trách nhiệm về sự phạm tội của mình) thì việc vâng giữ các điều răn và luật pháp của một người mới được kể là việc làm công chính.

Phao-lô và những người Do-thái đã tin nhận ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời bởi đức tin chứ không bởi sự làm theo luật pháp. Ông và họ đều hiểu rõ như vậy “vì chẳng có xác thịt nào được xưng công chính bởi các việc làm theo luật pháp”. Phao-lô không viết “chẳng có người nào” nhưng viết “chẳng có xác thịt nào” vì ông muốn nhấn mạnh đến sự kiện: Xác thịt không thể nào làm trọn những sự thuộc linh. Loài người được sinh ra trong tội lỗi, tâm thần của loài người đã bị băng hoại vì tội lỗi, không sao có thể bắt phục xác thịt, để khiến xác thịt tuân theo các điều răn của Đức Chúa Trời.

Phao-lô nhắc cho mọi người nhớ rằng, họ được xưng công chính bởi đức tin vào trong Đức Chúa Jesus Christ, không bởi bất cứ một việc làm nào theo luật pháp. Nghĩa là, ngay cả việc dâng chiên con làm của lễ chuộc tội cũng không khiến cho một người được xưng là công chính. Người dâng của lễ được Đức Chúa Trời xưng là công chính vì người ấy tin vào lời hứa tha tội của Đức Chúa Trời chứ không phải vì người ấy dâng một con chiên con làm của lễ chuộc tội.

Không một lời nào trong Thánh Kinh dạy rằng, một người được xưng là công chính vì nhờ làm theo những điều luật pháp đòi hỏi. Ngay chính cái chết của Đức Chúa Jesus Christ cũng không khiến cho một người nào được xưng là công chính. Cái chết của Ngài là một việc làm thỏa mãn sự đòi hỏi của luật pháp để Đức Chúa Trời có thể tha tội cho người phạm tội, nhưng chỉ khi người phạm tội tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ thì người ấy mới được Đức Chúa Trời tha tội, và xưng là người công chính, tức là người không có trách nhiệm về sự phạm tội.

17 Nhưng đang khi chúng ta tìm kiếm sự được xưng công chính trong Đấng Christ, mà chính chúng ta bị xét thấy là những tội nhân, thì chẳng lẽ Đấng Christ là chấp sự của tội lỗi? Chẳng hề như vậy!

Nếu Phao-lô và những người Do-thái đang ở trong sự công chính nhờ đức tin vào trong Đấng Christ, mà lại bị kể là những tội nhân vì không vâng giữ các nghi thức hình bóng thời Cựu Ước, vì ngồi ăn chung với những tín đồ gốc dân ngoại, không chịu cắt bì, thì có phải qua đó, sự chết chuộc tội của Đấng Christ đã trở thành vô nghĩa? Từ ngữ “chấp sự” trong nguyên ngữ tiếng Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: người hầu bàn, người phục vụ, người chăm lo cho nhu cầu của người khác. Không lẽ, Đấng Christ lại trở thành Đấng hầu việc, phục vụ cho tội lỗi?

Phao-lô lý luận rằng:

Đấng Christ đã hoàn thành sự đòi hỏi của luật pháp đối với mọi tội nhân, đó là: Ngài gánh lấy hình phạt của tội lỗi cho loài người bằng cách chịu đau đớn, chịu sỉ nhục, và chịu chết trên thập tự giá. Cái chết của Đấng Christ cũng chấm dứt mọi nghi thức hình bóng về sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội trong Giao Ước Cũ. Vì thế, bất cứ ai tin nhận Đấng Christ, tức là tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, thì người ấy được tha tội, được làm cho sạch tội, được dựng nên mới, được Đức Chúa Trời xưng là người công chính. Người ấy không cần phải vâng giữ các nghi thức làm hình bóng về sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội trong Giao Ước Cũ, trong đó có nghi thức cắt bì là nghi thức tiêu biểu cho sự làm cho sạch tội. Nếu cho rằng người tin nhận Đấng Christ nhưng không chịu cắt bì hoặc chịu cắt bì nhưng ngồi ăn chung với người không chịu cắt bì là phạm luật pháp của Đức Chúa Trời, thì đương nhiên đã cho rằng Đấng Christ rao giảng một giáo lý khiến cho người ta phạm tội. Và nếu như vậy, thì Đấng Christ trở thành chấp sự của tội lỗi. Nhưng không phải vậy.

Chúng ta cũng biết rõ: Ngay từ khi Giăng Báp-tít xuất hiện để dọn lòng dân I-sơ-ra-ên cho Tin Lành của Đấng Christ, thì chính Giăng Báp-tít cũng chỉ kêu gọi sự ăn năn tội. Khi Đức Chúa Jesus Christ đến, thì Ngài cũng chỉ kêu gọi sự ăn năn tội, vì có ăn năn tội thì mới nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Jesus Christ truyền cho các môn đồ đi khắp thế gian giảng Tin Lành, khiến cho muôn dân trở thành môn đồ của Ngài, Ngài không truyền cho họ phải làm phép cắt bì cho người tin nhận Tin Lành. Ngài chỉ truyền cho họ báp-tem người tin nhận Tin Lành vào trong danh của Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh, rồi dạy cho người tin nhận Tin Lành tất cả những gì mà Ngài đã truyền cho họ. Thế nhưng, ngay cả phép báp-tem cũng không phải là điều kiện buộc phải có để được cứu rỗi. Một người được cứu chỉ nhờ vào ân điển của Thiên Chúa và bởi đức tin vào trong Đấng Christ. Người được cứu thì được Đức Chúa Trời xưng là công chính, vì Đấng Christ đã thay cho người ấy gánh lấy mọi hình phạt của tội lỗi.

18 Vì nếu tôi lập lại những điều tôi đã phá hủy, thì tôi sẽ khiến chính mình thành người phạm pháp.

Nếu Phao-lô hay bất cứ ai đã tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ mà lại dựa vào các nghi thức hình bóng trong Giao Ước Cũ, để mong được tha tội và được sạch tội, thì ông hay người ấy trở lại phạm pháp, vì không ai có thể dựa vào sự làm theo luật pháp để được sạch tội.

Trong Giao Ước Cũ, một người muốn được Đức Chúa Trời tha tội thì phải thể hiện đức tin của mình vào trong ân điển của Ngài, bằng cách vâng theo lời phán dạy của Đức Chúa Trời, làm ra các nghi thức hình bóng về sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội mà khi đến kỳ hạn Đức Chúa Trời đã định, thì Đấng Christ sẽ hoàn thành. Các nghi thức ấy không khiến cho người ấy được tha tội hay được sạch tội, vì chỉ là hình bóng cho sự hy sinh của Đấng Christ. Nhưng đức tin của người ấy vào trong ân điển của Đức Chúa Trời, thể hiện qua sự người ấy vâng phục Đức Chúa Trời làm ra các nghi thức do Ngài chỉ định, khiến cho người ấy được Đức Chúa Trời tha tội. Vì thế, ngay trong Giao Ước Cũ, một người được tha tội cũng chỉ nhờ đức tin, được thể hiện thành hành động vâng phục, chứ không phải nhờ làm theo luật pháp một cách máy móc.

Trong Giao Ước Mới, là khi Đấng Christ đã đến và làm trọn sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội, thì các nghi thức hình bóng không còn cần thiết nữa. Một người chỉ cần tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì người ấy được tha tội và được làm cho sạch tội. Khi một người tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì người ấy đương nhiên phá bỏ tất cả những nghi thức hình bóng trong Giao Ước Cũ.

Một người đã tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ mà trở lại nhờ cậy một nghi thức hình bóng để được cứu rỗi, như phép cắt bì chẳng hạn, thì người ấy đương nhiên phá bỏ sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, dựng trở lại các nghi thức hình bóng. Và như thế, người ấy trở về với địa vị tội nhân, vì không một nghi thức hình bóng nào có thể khiến cho một người được tha tội và được sạch tội.

Chúng ta được cứu ra khỏi sức mạnh của tội lỗi và hậu quả của tội lỗi hoàn toàn nhờ ân điển của Thiên Chúa. Ân điển ấy là sự Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, ban cho chúng ta cơ hội và phương tiện được cứu rỗi; Đức Chúa Jesus Christ chịu chết thay cho chúng ta, dùng máu của Ngài rửa sạch mọi tội của chúng ta, khiến cho chúng ta trở về địa vị làm con của Đức Chúa Trời; Đức Thánh Linh ban cho chúng ta thánh linh của Thiên Chúa để chúng ta đắc thắng tội lỗi và có thể sống thánh khiết theo các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa.

Để nhận được ân điển cứu rỗi ấy, chúng ta chỉ cần tin Đức Chúa Jesus Christ, tức là tin vào mọi lời phán dạy của Ngài và sự chết chuộc tội của Ngài. Chứ chúng ta không cần phải làm một điều gì khác, không cần phải làm ra một nghi thức hình bóng nào trong Giao Ước Cũ.

Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt rõ như sau:

  • Tất cả các nghi thức hình bóng về sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội đã bị phá hủy sau khi Đức Chúa Jesus Christ khiến cho các sự ấy thành hiện thực qua cái chết của Ngài.
  • Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, là những tiêu chuẩn sống thánh khiết mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho loài người, vẫn còn nguyên trong Giao Ước Mới. Chẳng những thế còn được bổ sung bởi Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus Christ (Giăng 13:34) và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:29). Những người tin Chúa trong thời Đại Nạn, là lúc mà Hội Thánh đã được cất ra khỏi thế gian, vẫn phải vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời như Khải Huyền 14:12 đã tiên tri.

Loài người vì phạm các điều răn của Đức Chúa Trời mà bị hư mất, nhưng Đức Chúa Trời đã yêu loài người mà ban ơn cứu chuộc, để loài người được thánh sạch trở lại mà vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Không phải Đức Chúa Trời ban ơn cứu chuộc loài người ra khỏi sự hình phạt tội lỗi để loài người tha hồ tái phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời mà không bị hình phạt. Vì thế, cái chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ chỉ phá hủy mọi nghi thức hình bóng về sự chuộc tội, sự tha tội, và sự làm cho sạch tội chứ không phá hủy Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Cái chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ làm trọn sự đòi hỏi của luật pháp, là sự đòi hỏi tội nhân phải bị hình phạt, tức làm cho luật pháp được vững lập, chứ không phải để phá hủy luật pháp. Bất cứ giáo hội mang danh Chúa nào dạy rằng: Sự chết của Đức Chúa Jesus Christ đã hủy phá Mười Điều Răn và luật pháp của Đức Chúa Trời thì đó là hội của Sa-tan, giả làm Hội Thánh.

19 Bởi luật pháp, tôi đã chết, theo luật pháp, để tôi có thể sống cho Thiên Chúa.

Luật pháp của Đức Chúa Trời lên án chết bất cứ ai vi phạm dù chỉ một điều răn của Ngài. Rô-ma 6:23 đã khẳng định rằng: Tiền công của tội lỗi là sự chết! Vì thế, hễ phạm tội thì phải bị chết. Toàn thể loài người trong thế gian đều bởi luật pháp mà chết. Theo sự công chính và sức mạnh của luật pháp, mỗi tội nhân đều chết. Và sự chết được nói ở đây bao gồm sự chết của thể xác vì bị phân rẽ khỏi linh hồn và tâm thần trong đời này, lẫn sự linh hồn và thể xác bị phân rẽ đời đời khỏi Thiên Chúa sau sự chết của thể xác. Nhưng bất cứ ai có đức tin vào trong Đấng Christ thì được sống, bởi sự chết chuộc tội của Ngài (Ê-phê-sô 2:5; Rô-ma 5:8). Sự sống được nói đến ở đây là sự sống lại và sự sống đời đời của thể xác trong ngày Đức Chúa Jesus Christ hiện đến, lẫn sự sống vì Thiên Chúa và cho Thiên Chúa ngay trong khi còn ở trong thân thể xác thịt này.

Sống vì Thiên Chúa và cho Thiên Chúa là vui sống trong tình yêu của Ngài, trong đủ mọi ơn phước của Ngài, và làm theo Ngài trong mọi sự.

20 Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, nên tôi không còn sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Sự sống ấy mà tôi đang sống trong xác thịt, là tôi sống bởi đức tin vào trong Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.

Không riêng gì Sứ Đồ Phao-lô, mà mỗi một con dân chân thật của Thiên Chúa đều đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ. Khi một người tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì lập tức người ấy được hiệp một với Ngài. Và như vậy, sự chết, sự sống lại, và sự sống mới dẫn đến sự sống đời đời của người ấy đều hiệp làm một với sự chết, sự sống lại, và sự sống đời đời của Đức Chúa Jesus Christ. Đây là một sự huyền nhiệm mà Đức Chúa Trời đã mạc khải cho Phao-lô, như chúng ta đã học trong Ga-la-ti 1:13-24.

Chúng ta cần phân biệt sự sống, sự sống lại, và sự sống đời đời trong Đức Chúa Jesus Christ:

  • Về phương diện thần tính, Đức Chúa Jesus Christ là Thiên Chúa nhập thế làm người; Ngài là sự sống, vì Ngài là Đấng Tự Có và Có Mãi. Vì Ngài là sự sống cho nên sự chết và sự sống lại không thể xảy ra cho Ngài về phương diện thần tính.
  • Về phương diện nhân tính, Đức Chúa Jesus Christ là loài người. Sau khi thân thể xác thịt của Ngài chết đi và sống lại, thì thân thể ấy sống đời đời. Ngài là sự sống lại. Có chết đi thì mới có sống lại. Và sự chết cùng với sự sống lại chỉ có thể xảy ra cho Đức Chúa Jesus Christ về phương diện nhân tính.
  • Sự sống đời đời chỉ có thể xảy ra cho những thực thể có thể chết, như muôn loài thọ tạo. Thiên Chúa không sống đời đời vì Thiên Chúa chính là sự sống, không thể chết, nhưng Thiên Chúa có thể ban cho loài thọ tạo sự sống đời đời. Vì thế sự sống đời đời có nghĩa là được mãi mãi có mặt (thực hữu) một cách hạnh phúc trong tình yêu của Thiên Chúa, trong sự hiểu biết và vui hưởng Thiên Chúa. Ngược lại với sự sống đời đời là sự chết đời đời. Sự chết đời đời là sự mãi mãi thực hữu một cách đau khổ vì bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa.

“Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ” có nghĩa là thân thể xác thịt và bản ngã say mê tội lỗi của tôi đều bị đóng đinh, bị giết chết, theo luật pháp của Đức Chúa Trời, qua sự chịu đóng đinh và chịu chết của Đức Chúa Jesus Christ, vì tôi được hiệp một với Ngài, được ở trong Ngài. Ngài chết thay tôi nhưng chính mình tôi cũng chết! Vì thế thân thể xác thịt của tôi không còn làm nô lệ cho tội lỗi, không còn bị tội lỗi sai khiến. Bản ngã say mê tội lỗi cũng không còn trong tôi.

“Hãy biết rằng: Người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Ngài, để cho thân thể của tội lỗi bị tiêu diệt đi, và chúng ta không còn bị nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết thì được thoát khỏi tội lỗi một cách công chính.” (Rô-ma 6:6-7).

Nhưng tôi cũng được sống lại với Đức Chúa Jesus Christ, vì Ngài đã chết thay cho tôi nên tôi không buộc phải ở lại trong sự chết. Vì tôi hiệp một với Ngài trong sự chết nên tôi cũng hiệp một với Ngài trong sự sống lại.

“Vậy, chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi được báp-tem vào trong sự chết, để cho Đấng Christ bởi sự vinh quang của Đức Cha được sống lại từ trong những kẻ chết thế nào, thì chúng ta cũng sẽ bước đi trong sự mới của đời sống thế ấy. Vì nếu chúng ta được tháp làm một với Ngài trong sự chết giống như sự chết của Ngài, thì chúng ta cũng sẽ được tháp làm một với Ngài trong sự sống lại giống như sự sống lại của Ngài.” (Rô-ma 6:4-5).

Sự sống lại của tôi trong Đức Chúa Jesus Christ được gọi là sự được tái sinh, được sinh ra từ trên cao, được sinh ra bởi Đức Chúa Trời, được dựng nên mới. Vì tôi vẫn hiệp một với Đức Chúa Jesus Christ nên con người mới của tôi sống bằng chính năng lực của Đức Chúa Jesus Christ, là năng lực của Thiên Chúa, còn gọi là thánh linh. Vì thế, gọi là Đấng Christ sống trong tôi. Sự sống ấy tuôn tràn trong thân thể xác thịt này của tôi, nhờ đó mà tôi thắng được tội lỗi, vừa muốn, vừa làm theo thánh ý của Thiên Chúa (Phi-líp 2:13). Tôi chỉ có thể sống như vậy khi tôi thật tin vào Đức Chúa Jesus Christ, vâng theo mọi lời phán dạy của Ngài; trong đó có lời phán dạy, hãy giữ các điều răn của Đức Chúa Trời để được sự sống đời đời (Ma-thi-ơ 19:17).

Nhiều người viện dẫn Giăng 3:16 để nói rằng, chỉ cần tin Đức Chúa Jesus Christ thì được sự sống đời đời. Nhưng họ không hiểu rằng, hễ ai tin Đức Chúa Jesus Christ thì phải làm theo mọi điều Ngài phán dạy. Mà trong những điều Ngài phán dạy, thì Ngài phán dạy rằng, một người phải vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời để được sự sống đời đời.

Chúng ta chỉ cần thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ để được cứu ra khỏi hậu quả của tội lỗi và sức mạnh của tội lỗi. Nhưng sau khi được cứu, chúng ta phải chấm dứt sự phạm tội, tức là sự phạm các điều răn của Đức Chúa Trời. Nếu không, chúng ta sẽ rơi vào trường hợp bị hư mất đời đời, như Lời Chúa đã dạy rõ:

Hê-bơ-rơ 6:4-8

4 Vì không thể nào những người đã một lần được soi sáng, đã nếm sự ban cho từ trên trời, được trở nên những người dự phần về thánh linh,

5 đã nếm Lời phán lành của Thiên Chúa và những năng lực của đời sau,

6 rồi họ lại sa ngã, mà được phục hồi vào trong sự ăn năn. Vì họ đang đóng đinh Con của Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình lần nữa và họ công khai sỉ nhục Ngài.

7 Vì đất thấm nhuần mưa thường xuyên đến trên nó mà sinh ra cây cỏ, có ích cho họ, những người cày xới nó, thì nhận phước từ Đức Chúa Trời.

8 Nhưng nếu nó sinh ra những cây gai và những cây tật lê, thì bị bỏ và gần sự nguyền rủa. Sự cuối cùng của nó là vào trong sự thiêu đốt.

Hê-bơ-rơ 10:26-29

26 Vì nếu chúng ta cố ý phạm tội sau khi đã nhận lãnh tri thức về lẽ thật, thì không còn được chừa lại cho chúng ta sinh tế chuộc những tội lỗi.

27 Nhưng chỉ có một sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ thiêu nuốt những kẻ bội nghịch.

28 Ai đã chối bỏ luật pháp của Môi-se, thì chết không có sự thương xót, bởi hai hay ba chứng nhân.

29 Các anh chị em nghĩ xem, hình phạt sẽ nặng hơn biết bao để xứng với kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời, xem máu của giao ước mà bởi đó kẻ ấy được nên thánh là ô uế, và sỉ nhục Đấng Thần Linh của ân điển.

Sa-tan đã dùng sự giảng dạy tà giáo trong các giáo hội mang danh Chúa, khiến cho nhiều người trở lại vi phạm các điều răn của Đức Chúa Trời, sau khi họ được cứu, mà điều răn thứ tư là điều răn bị vi phạm trầm trọng nhất. Thậm chí, nhiều giáo hội công khai bác bỏ điều răn thứ tư và gọi những ai giữ điều răn thứ tư là theo tà giáo. Điều đáng buồn là, Sa-tan lại tinh ranh tạo ra các giáo hội vâng giữ điều răn thứ tư, nhưng lại giảng dạy các tà giáo khác, như:

  • Cơ-đốc Phục Lâm, không tin hỏa ngục đời đời, tin rằng sau khi chết thì không còn ý thức, buộc tín đồ kiêng các thức ăn bị xem là ô uế trong thời Cựu Ước.
  • Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới, thờ “Đức Chúa Trời Mẹ” và tôn xưng một người Nam Hàn đã chết làm Đức Chúa Jesus Christ và Đức Thánh Linh.
  • Các hệ phái trong phong trào Cội Nguồn Hê-bơ-rơ (Hebrew Roots), Hội Thánh của Đức Chúa Trời Toàn Cầu (Worldwide Church of God), bác bỏ thần tính của Đức Chúa Jesus Christ và Đức Thánh Linh.
  • V.v..

Sự tinh ranh này của Sa-tan đã khiến cho những con dân chân thật của Chúa, biết vâng giữ điều răn thứ tư, bị hiểu lầm là tín đồ của một trong các giáo hội tà giáo nêu trên.

21 Tôi không muốn làm cho ân điển của Đức Chúa Trời ra vô ích; vì nếu bởi luật pháp mà được sự công chính, thì Đấng Christ chịu chết cách vô ích.

Câu 21 là câu Phao-lô đúc kết lời quở trách Phi-e-rơ và cũng là lời công bố lẽ thật về phương cách khiến một người nhận được sự cứu rỗi của Thiên Chúa, là chỉ tin vào Đấng Christ. Phao-lô khẳng định, ông không thể nào làm cho ân điển của Đức Chúa Trời trở thành vô ích. Vì thế ông không thể chấp nhận giáo lý sai trái của những người tín đồ gốc Do-thái, ông cũng không thể chấp nhận sự giả hình của Sứ Đồ Phi-e-rơ. Nếu loài người có thể nhờ bất cứ một nghi thức hình bóng nào trong Giao Ước Cũ để được cứu ra khỏi hậu quả của tội lỗi và quyền lực của tội lỗi, thì Đấng Christ không cần phải chết chuộc tội cho loài người.

Chúng ta cần hiểu rõ điều này: Cho dù Phao-lô không chấp nhận giáo lý sai trái của những người tín đồ gốc Do-thái, là giáo lý buộc con dân Chúa người ngoại phải chịu cắt bì để được cứu rỗi, mà ông lại im lặng trước sự giả hình của Phi-e-rơ, thì ông cũng làm cho ân điển của Đức Chúa Trời ra vô ích. Người đời có câu: Im lặng trước tội ác là đồng lõa gây ra tội ác! Còn Thánh Kinh thì lên án những ai có bổn phận canh giữ con dân Chúa, nhìn thấy sự nguy hiểm đến với con dân Chúa, mà không lên tiếng cảnh báo (Ê-xê-chi-ên 33:6). Trong Giao Ước Mới, Đức Chúa Jesus Christ đã ban cho Hội Thánh một điều răn mới:

“…Các ngươi hãy yêu lẫn nhau. Như Ta đã yêu các ngươi thế nào thì các ngươi cũng hãy yêu lẫn nhau thế ấy.” (Giăng 13:34).

Vì thế, mỗi chúng ta có bổn phận canh giữ lẫn nhau trước mọi sự tấn công của Sa-tan, nhất là sự tấn công qua các loại tà giáo; cáo trách lẫn nhau khi thấy anh chị em của mình phạm tội. Vì không thể nào chúng ta yêu lẫn nhau như Chúa yêu chúng ta mà chúng ta không lên tiếng cảnh báo anh chị em của mình trước tà giáo, và không lên tiếng cáo trách khi anh chị em của mình phạm tội mà chưa ăn năn.

Nguyện lẽ thật của Lời Chúa thánh hóa chúng ta, ban sự khôn sáng, thông sáng thuộc linh cho chúng ta, và thêm năng lực cho chúng ta trong suốt tháng ngày còn lại của chúng ta trong thế gian. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
19/03/2016

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.