Chú Giải Công Vụ Các Sứ Đồ 08:01-25 Hội Thánh Bị Bách Hại…

1,784 views

YouTube: https://youtu.be/-IaeuGsKNHw

44021 Chú Giải Công Vụ Các Sứ Đồ 8:1-25
Hội Thánh Bị Bách Hại
Tin Lành Được Rao Giảng tại Sa-ma-ri
Thuật Sĩ Si-môn

   Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Công Vụ Các Sứ Đồ 8:1-25

1 Sau-lơ đã ưng thuận về sự người bị giết. Trong lúc đó, đã có sự bách hại lớn, nghịch lại Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem. Hết thảy họ đã bị tan lạc qua các miền Giu-đê và Sa-ma-ri, ngoại trừ các sứ đồ.

2 Nhưng những người tin kính đã mang Ê-tiên đi, và làm ra một cuộc than khóc lớn về người.

3 Sau-lơ đã tàn hại Hội Thánh, sấn vào mỗi nhà, bắt cả những đàn ông và những đàn bà, ném họ vào tù.

4 Vậy, thực tế, những người bị tản lạc đã đi đó đây, rao giảng Lời.

5 Phi-líp đã đi xuống, vào trong thành Sa-ma-ri, giảng về Đấng Christ cho họ.

6 Thì dân chúng đã đồng lòng, chú tâm đến những điều Phi-líp nói; nghe và thấy các phép lạ mà người đã làm.

7 Vì có những uế linh kêu lớn tiếng, ra khỏi nhiều kẻ bị ám; cùng nhiều kẻ bị bại và què đã được chữa lành.

8 Đã có sự vui mừng lớn trong thành ấy.

9 Nhưng có một người kia tên là Si-môn, khi trước ở trong thành đã làm phù phép và làm kinh ngạc dân Sa-ma-ri. Họ đã cho rằng, người ấy là người vĩ đại.

10 Hết thảy họ, từ trẻ đến già, đều nghe theo người. Họ nói: Đây là năng lực vĩ đại của Đức Chúa Trời.

11 Họ đã nghe theo người, vì lâu nay, người đã làm kinh ngạc họ với phù phép.

12 Nhưng khi họ đã tin Phi-líp rao giảng Tin Lành về Vương Quốc của Đức Chúa Trời và danh của Đức Chúa Jesus Christ, thì họ đã chịu báp-tem, cả đàn ông lẫn đàn bà.

13 Chính Si-môn cũng đã tin và đã chịu báp-tem. Người đã theo suốt Phi-líp. Người thấy những năng lực vĩ đại và những dấu kỳ được làm ra, thì kinh ngạc.

14 Các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem đã nghe rằng, dân Sa-ma-ri đã nhận lấy Lời của Đức Chúa Trời, thì đã sai Phi-e-rơ và Giăng đến với họ.

15 Các người ấy đã đi xuống, cầu nguyện cho họ để họ có thể nhận thánh linh.

16 Vì thánh linh chưa giáng trên dù chỉ một người trong họ. Họ đã chịu báp-tem chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus.

17 Rồi, [Phi-e-rơ và Giăng] đặt tay trên họ, thì họ đã nhận thánh linh.

18 Si-môn thấy rằng, Đức Thánh Linh đã được ban cho bởi sự đặt tay của các sứ đồ, người đã đem tiền cho họ,

19 nói: Xin cũng hãy ban cho tôi năng lực này để tôi đặt tay trên bất cứ ai thì người ấy có thể nhận thánh linh.

20 Nhưng Phi-e-rơ đã nói với người: Tiền của ngươi nên vào trong sự hư mất với ngươi, vì ngươi tưởng rằng, sự ban cho của Đức Chúa Trời có thể mua được bằng tiền.

21 Ngươi chẳng dự phần cũng chẳng có phần được chia trong sự này; vì lòng của ngươi chẳng ngay thẳng trước Đức Chúa Trời.

22 Vậy, hãy ăn năn sự độc ác này của ngươi! Và hãy cầu nguyện Đức Chúa Trời để có thể ý tưởng của lòng ngươi sẽ được tha cho ngươi.

23 Vì ta thấy ngươi đang ở trong mật đắng và trong sự trói buộc của sự không công chính.

24 Si-môn đã trả lời rằng: Xin các ông hãy cầu nguyện với Chúa cho tôi, để chẳng điều gì các ông đã nói sẽ đến trên tôi.

25 Vậy, thực tế [Phi-e-rơ và Giăng] đã làm chứng và giảng Lời của Chúa thì quay trở về Giê-ru-sa-lem, cùng lúc họ đã giảng Tin Lành trong nhiều làng của người Sa-ma-ri.

Trong bài này, chúng ta cùng nhau học về ba sự kiện được ghi chép trong Công Vụ Các Sứ Đồ 8:1-25:

  • Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem bị bách hại bởi Do-thái Giáo.

  • Tin Lành được giảng ra cho dân Sa-ma-ri.

  • Thuật Sĩ Si-môn tin nhận Tin Lành và bị Sứ Đồ Phi-e-rơ quở trách.

Ba sự kiện này nói lên một số điều thường xuyên xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử của Hội Thánh. Từ khi Hội Thánh được thành lập cho tới khi Hội Thánh được Đấng Christ cất ra khỏi thế gian, lúc nào Hội Thánh cũng phải đối diện với các điều tương tự.

1 Sau-lơ đã ưng thuận về sự người bị giết. Trong lúc đó, đã có sự bách hại lớn, nghịch lại Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem. Hết thảy họ đã bị tan lạc qua các miền Giu-đê và Sa-ma-ri, ngoại trừ các sứ đồ.

Trong câu 58 của đoạn 7, Thánh Kinh đã giới thiệu về Sau-lơ là một thanh niên trong số những người chứng kiến cảnh ném đá Ê-tiên. Sau-lơ đã được các chứng nhân dối cởi áo ngoài, đặt dưới chân ông, để họ tiện tay mở đầu cuộc ném đá. Qua ba câu đầu tiên của đoạn 8, chúng ta thấy, Sau-lơ chẳng những đồng ý với sự ném đá Ê-tiên mà ông còn là một người rất sốt sắng trong việc bách hại con dân Chúa. Qua lời tâm sự của ông sau này mà chúng ta biết, Sau-lơ là một người thật lòng tin kính Chúa; nhưng vì thiếu sự hiểu biết Lời Chúa mà ông ra tay bách hại những môn đồ của Đấng Christ, tưởng mình đang bảo vệ sự tôn kính của Thiên Chúa.

Sự bách hại lần đầu tiên Hội Thánh kinh nghiệm là sự bách hại do những người theo Do-thái Giáo thực hiện và đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem. Những người theo Do-thái Giáo là những người I-sơ-ra-ên tin Thánh Kinh Cựu Ước và tôn thờ Thiên Chúa. Vào thời bấy giờ, Do-thái Giáo được đứng đầu bởi Tòa Công Luận tại Giê-ru-sa-lem, là một hội đồng có 71 thành viên, bao gồm các trưởng lão, các thư ký, các thành viên nổi bật trong gia đình của thầy tế lễ thượng phẩm, và bản thân thầy tế lễ thượng phẩm là người chủ tọa hội đồng. Sự bách hại lần đầu tiên lớn đến nỗi các môn đồ của Đấng Christ phải trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, lưu lạc đến các nơi khác. Tại Giê-ru-sa-lem chỉ còn lại các sứ đồ.

Số người tin Chúa tại Giê-ru-sa-lem sau khi Hội Thánh được thành lập có thể lên đến hàng chục ngàn. Có lẽ khoảng phân nửa là những người I-sơ-ra-ên từ các nơi khác về Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Ngũ Tuần; mà sau đó họ cũng đã lên đường về lại trú quán của họ. Số còn lại là cư dân của Giê-ru-sa-lem, nhưng có lẽ phần lớn là những người bình dân, lao động tay chân, khó nghèo. Trước sự bách hại của Do-thái Giáo, họ đã trốn qua các miền lân cận của thành Giê-ru-sa-lem, là xứ Giu-đê và xứ Sa-ma-ri.

Cuộc bách hại Hội Thánh lần đầu tiên tại Giê-ru-sa-lem dẫn đến cái chết của Chấp Sự Ê-tiên, đồng thời khiến cho Hội Thánh phải tản lạc đến Giu-đê và Sa-ma-ri, vô tình làm ứng nghiệm lời truyền của Đức Chúa Jesus Christ, trước khi Ngài thăng thiên:

Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và là những chứng nhân cho Ta chẳng những tại Giê-ru-sa-lem, tại cả xứ Giu-đê và Sa-ma-ri, mà cho đến tận cùng của trái đất.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 1:8).

Vì khi các môn đồ của Đấng Christ đi đến đâu thì họ giảng Tin Lành đến đó. Đây chính là điều vẫn được tái diễn trong suốt chiều dài lịch sử của Hội Thánh. Cứ mỗi khi có sự bách hại xảy ra trên Hội Thánh, con dân Chúa phải tản lạc khắp nơi, thì Tin Lành lại được rao giảng trong bất cứ nơi nào con dân Chúa đặt chân đến. Có thể, lúc bấy giờ Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem chưa biết thời điểm để Tin Lành được rao giảng tại xứ Giu-đê và xứ Sa-ma-ri đã bắt đầu. Nhưng Chúa đã dùng sự bách hại Hội Thánh để phát động công cuộc rao giảng Tin Lành đến hai địa phương ấy.

2 Nhưng những người tin kính đã mang Ê-tiên đi, và làm ra một cuộc than khóc lớn về người.

Những người tin kính là những người có đức tin sốt sắng vào Thiên Chúa và Thánh Kinh, như được nói đến trong Công Vụ Các Sứ Đồ 2:5. Những người này không nhất thiết là những người đã tin nhận Tin Lành, mặc dù có thể họ là những người đã tin nhận Tin Lành.

Sự mang Ê-tiên đi hàm ý, để lo về việc an táng.

Danh từ “cuộc than khóc” (G2870) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là sự than khóc được thể hiện bằng hành động kêu, khóc và đấm tay vào ngực. Cuộc than khóc lớn là cuộc than khóc được kéo dài và có nhiều người tham dự.

3 Sau-lơ đã tàn hại Hội Thánh, sấn vào mỗi nhà, bắt cả những đàn ông và những đàn bà, ném họ vào tù.

Động từ “tàn hại” (G3570) trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là làm nhục và làm cho bị tổn thương. Động từ này cũng được dùng để nói đến sự dã thú tấn công và ăn nuốt con mồi. Lời tự thuật của Sau-lơ cho thấy, ông đã tận sức bách hại Hội Thánh một cách không thương tiếc:

Tôi cũng đã làm sự ấy tại Giê-ru-sa-lem. Tôi đã nhốt nhiều thánh đồ vào tù, sau khi đã nhận thẩm quyền từ các thầy tế lễ thượng phẩm. Tôi đã bỏ phiếu khi họ bị xử chết. Tôi thường trừng phạt họ trong mỗi nhà hội; bắt họ nói phạm thượng. Tôi cũng giận họ quá mà bách hại họ cho đến tận các thành ở xa.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 26:10-11).

Điều oái oăm là khi Sau-lơ hành động như vậy, ông đã tưởng rằng, ông đang hầu việc Thiên Chúa. Ngày nay, vẫn có nhiều người xưng nhận mình là con dân Chúa nhưng vì thiếu sự hiểu biết Lời Chúa, chỉ biết tin vào các giáo lý sai trật của các giáo hội, các giáo lý không đúng Thánh Kinh, mà bách hại những con dân chân thật của Chúa.

4 Vậy, thực tế, những người bị tản lạc đã đi đó đây, rao giảng Lời.

5 Phi-líp đã đi xuống, vào trong thành Sa-ma-ri, giảng về Đấng Christ cho họ.

Lý do con dân Chúa tại Giê-ru-sa-lem phải tản lạc đi khắp nơi là để tránh sự bị bách hại. Sự trốn tránh đó là vâng theo lời phán dạy của Chúa (Ma-thi-ơ 10:23). Nhưng sự trốn tránh đó cũng là cơ hội để Tin Lành được rao giảng khắp nơi.

Thánh Kinh thường dùng cách nói: “rao giảng Lời”, “tiếp nhận Lời” để nói đến sự rao giảng Tin Lành và tiếp nhận Tin Lành. Chữ “Lời” dùng trong các trường hợp này đều có mạo từ xác định đứng trước, như danh xưng “Ngôi Lời”. Vì thế, “rao giảng Lời” và “tiếp nhận Lời” còn có nghĩa là rao giảng về Đấng Christ và tiếp nhận Đấng Christ.

Phi-líp là một trong bảy chấp sự đầu tiên của Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem (Công Vụ Các Sứ Đồ 6:5).

Thánh Kinh dùng cách nói “đi xuống” để chỉ sự rời khỏi thành Giê-ru-sa-lem, vì thành Giê-ru-sa-lem nằm trên đỉnh núi Si-ôn. Tương tự như vậy, mỗi khi nói về việc đi tới thành Giê-ru-sa-lem thì Thánh Kinh đều dùng cách nói “đi lên”.

Chấp Sự Phi-líp đã từ thành Giê-ru-sa-lem đi xuống thành Sa-ma-ri và giảng Tin Lành về Đấng Christ. Thành Sa-ma-ri nằm về phía bắc thành Giê-ru-sa-lem và cách thành Giê-ru-sa-lem khoảng 56 km.

6 Thì dân chúng đã đồng lòng, chú tâm đến những điều Phi-líp nói; nghe và thấy các phép lạ mà người đã làm.

7 Vì có những uế linh kêu lớn tiếng, ra khỏi nhiều kẻ bị ám; cùng nhiều kẻ bị bại và què đã được chữa lành.

Trước đây, chính Đức Chúa Jesus đã từng giảng dạy cho dân Sa-ma-ri tại thành Si-kha (Giăng 4), cách thành Sa-ma-ri về phía nam khoảng 10 km. Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành Si-kha đã tin nhận Đức Chúa Jesus. Chắc chắn tiếng đồn về sự giảng dạy của Đức Chúa Jesus đã từ thành Si-kha lan truyền đến thành Sa-ma-ri. Nay, Phi-líp đến và giảng về Đấng Christ cho dân thành Sa-ma-ri thì họ đã đồng lòng, chăm chú, lắng nghe.

Trong khi Phi-líp rao giảng về Đấng Christ thì cũng trong danh Ngài, ông đã xua đuổi những tà linh ra khỏi những người bị chúng ám nhập, chữa lành những người bị bại và què.

Danh từ “uế linh” (G169 và G4151) được dùng để chỉ các thiên sứ phạm tội, trở thành ma quỷ, nhập vào trong thân thể của loài người hay loài thú. Tính từ “uế” có nghĩa là ô uế, không tinh sạch về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; không tinh sạch về thuộc thể lẫn thuộc linh. Khi ma quỷ nhập vào một người thì chúng khiến cho người ấy ăn ở mất vệ sinh và khiến người ấy thờ phượng những hình tượng và tà thần.

Động từ “bị bại” (G3886) nói đến trường hợp bị bại liệt nửa người bên phải hoặc bên trái, tiếng Hán Việt là “bán thân bất toại”. Bệnh này chủ yếu là do tai biến mạch máu não và một số ít là các di chứng do rối loạn hay tổn thương tế bào thần kinh.

Tính từ “què” (G5560) nói đến bất cứ trường hợp tật bệnh nào khiến cho chân của bệnh nhân không thể đi đứng bình thường.

8 Đã có sự vui mừng lớn trong thành ấy.

Bất cứ nơi nào Tin Lành được rao giảng và được tiếp nhận thì sẽ có sự vui mừng lớn tại nơi ấy. Sự vui mừng của những người được nhận biết lẽ thật, được giải phóng khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, được hiểu biết về Thiên Chúa, được đầy dẫy thánh linh để sống một đời sống yêu thương, thánh khiết, và công chính. Sự vui mừng ấy còn lại cho tới đời đời nếu người tin nhận Tin Lành cứ trung tín cho tới chết. Đó cũng là sự thường xuyên xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử của Hội Thánh.

9 Nhưng có một người kia tên là Si-môn, khi trước ở trong thành đã làm phù phép và làm kinh ngạc dân Sa-ma-ri. Họ đã cho rằng, người ấy là người vĩ đại.

Vào thời ấy, tại thành Sa-ma-ri có một thuật sĩ tên là Si-môn. Thuật sĩ có nghĩa là người nhờ vào năng lực của các tà linh mà làm ra các việc siêu nhiên; còn được gọi là thầy bùa, thầy pháp, hoặc phù thủy. Thuật sĩ có thể nhân danh các tà thần, làm ra các việc siêu nhiên để giúp người hoặc hại người, khiến người ta tôn thờ và sợ hãi các tà thần.

Danh từ “phù phép” (G3096) được dùng để gọi năng lực đến từ ma quỷ, giúp cho một người làm ra những việc siêu nhiên. Ngay từ thời xa xưa, những người thờ lạy ma quỷ qua các danh xưng tà thần đều có năng lực làm ra các việc siêu nhiên. Xuất Ê-díp-tô Ký đoạn 7 và đoạn 8 đã ghi lại sự kiện các thuật sĩ người Ê-díp-tô cũng có thể làm ra một số phép lạ giống như Môi-se và A-rôn. Ma quỷ là các thiên sứ phạm tội nên chúng có năng lực siêu nhiên và ma quỷ có thể hành động qua các tôi tớ loài người của chúng. Vì thế, chúng ta không cần phải bài bác các sự kiện gọi là “phép lạ” đến từ ma quỷ. Điều cần làm là chúng ta xem xét các phép lạ được nhân danh Chúa để làm có thật sự đến từ Chúa hay không. Tất cả các phép lạ nào nghịch lại các lẽ thật của Thánh Kinh thì không đến từ Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với các tin tức về tượng bà Ma-ri chỗ này chảy nước mắt hoặc tượng bà Ma-ri chỗ kia chảy máu mắt, thì chúng ta đừng tốn thời gian đọc các bản tin hay xem các đoạn phim. Vì cho dù thật sự có nước mắt hay máu chảy ra từ các bức tượng thì đó không thể đến từ Chúa. Vì Chúa cấm loài người làm ra các loại tượng mang hình các sinh động vật (Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:15-18). Huống chi, tượng của bà Ma-ri lại được nhiều người thờ lạy.

Trước khi Phi-líp đến, rao giảng về Đấng Christ, thì dân chúng đã kinh ngạc trước các phù phép do Si-môn làm ra, nên họ đã gọi Si-môn là một người vĩ đại.

10 Hết thảy họ, từ trẻ đến già, đều nghe theo người. Họ nói: Đây là năng lực vĩ đại của Đức Chúa Trời.

11 Họ đã nghe theo người, vì lâu nay, người đã làm kinh ngạc họ với phù phép.

Với sự tán tụng của dân chúng thì có lẽ Si-môn là một thuật sĩ chuyên làm ra các việc siêu nhiên để giúp người, khiến dân chúng thờ lạy tà thần qua danh xưng “Đức Chúa Trời”. Dân Sa-ma-ri là dân I-sơ-ra-ên lai với các dân tộc khác. Mặc dù họ bị dân I-sơ-ra-ên chính gốc khinh thường và kỳ thị, nhưng họ vẫn tự nhận mình là con cháu của Áp-ra-ham, tin nhận Thánh Kinh, và thờ phượng Đức Chúa Trời. Giăng đoạn 4 phần nào giúp cho chúng ta hiểu như vậy. Chính vì thế mà dân thành Sa-ma-ri cho rằng, các việc phù phép của Si-môn là đến từ Đức Chúa Trời.

Ngày nay, có nhiều người nhân danh Chúa làm ra các dấu kỳ và phép lạ; nhưng khi chúng ta đối chiếu lời rao giảng của họ với Thánh Kinh thì thấy họ rao giảng không đúng với Lời Chúa. Vấn đề không phải là họ có năng lực làm ra phép lạ hay không mà vấn đề là phép lạ đó có đến từ Chúa hay không. Một người nhân danh Chúa rao giảng sai trật Thánh Kinh thì không thể nào phép lạ do người ấy làm ra là đến từ Chúa.

12 Nhưng khi họ đã tin Phi-líp rao giảng Tin Lành về Vương Quốc của Đức Chúa Trời và danh của Đức Chúa Jesus Christ, thì họ đã chịu báp-tem, cả đàn ông lẫn đàn bà.

Chúng ta cần biết rằng, dân chúng tại thành Sa-ma-ri có tấm lòng tin kính Chúa. Vì thế, khi lẽ thật được rao giảng thì Đức Thánh Linh đã khiến cho họ thông hiểu. Khi họ thông hiểu thì họ quyết định tin nhận. Khi họ tin nhận thì họ thể hiện bằng hành động vâng phục qua sự chịu báp-tem.

Những người Sa-ma-ri tin nhận Tin Lành và chịu báp-tem bao gồm đàn ông lẫn đàn bà. Đây là lần đầu tiên, kể từ khi Hội Thánh được thành lập, Thánh Kinh ghi lại sự kiện cả đàn ông lẫn đàn bà đều tin nhận Tin Lành và đều được báp-tem vào trong Hội Thánh.

13 Chính Si-môn cũng đã tin và đã chịu báp-tem. Người đã theo suốt Phi-líp. Người thấy những năng lực vĩ đại và những dấu kỳ được làm ra, thì kinh ngạc.

Có lẽ Si-môn nhìn thấy Phi-líp chữa lành những người bị quỷ nhập, bị bại, bị què mà trước đây bản thân của ông đã không thể chữa lành, nên ông kinh ngạc. Có lẽ cuộc đời của Si-môn đã quen thuộc với năng lực làm ra những việc siêu nhiên, nên khi ông nhìn thấy các phép lạ do Phi-líp làm ra vượt trội ông, thì ông tin vào lời rao giảng của Phi-líp. Có lẽ Si-môn nghĩ rằng, Đức Chúa Jesus Christ mà Phi-líp rao giảng là một vị thần vượt trội hơn thần linh mà ông đang tôn thờ. Sự tin nhận Đấng Christ và chịu báp-tem của Si-môn không xuất phát từ tấm lòng ăn năn tội và khao khát được cứu rỗi, mà chỉ là tin vào phép lạ và khao khát được có năng lực làm ra các phép lạ vĩ đại như vậy.

Ngày nay, có nhiều người cũng tin nhận Đấng Christ và chịu báp-tem không phải vì thật lòng ăn năn tội mà chỉ để được điều gì đó trong các giáo hội.

Mệnh đề “người đã theo suốt Phi-líp” hàm ý, Si-môn đã ở chung với Phi-líp, sau khi tuyên bố tin nhận Đấng Christ và chịu báp-tem.

14 Các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem đã nghe rằng, dân Sa-ma-ri đã nhận lấy Lời của Đức Chúa Trời, thì đã sai Phi-e-rơ và Giăng đến với họ.

Danh từ “Lời của Đức Chúa Trời” có nghĩa là những lời rao giảng về Tin Lành nhưng cũng có thể dịch là “Ngôi Lời của Đức Chúa Trời” để chỉ thân vị Thiên Chúa của Đấng Christ. Người dân thành Sa-ma-ri vừa tin nhận lời rao giảng về Tin Lành vừa tin nhận chính Đấng Christ.

Khi các sứ đồ đang ở tại Giê-ru-sa-lem nghe tin dân thành Sa-ma-ri đã tin nhận Đấng Christ thì đã cử ra Phi-e-rơ và Giăng cùng đến thăm những người mới tin Chúa. Sự Phi-e-rơ và Giăng là hai sứ đồ của Chúa đến thăm những người mới tin Chúa tại Sa-ma-ri là một sự kiện rất có ý nghĩa. Sự ấy cho thấy rằng, Hội Thánh của Chúa không có sự phân biệt giữa những người I-sơ-ra-ên chính gốc và những người I-sơ-ra-ên bị lai chủng với các dân tộc khác. Mục đích thứ nhất của các sứ đồ khi cử Phi-e-rơ và Giăng đến thành Sa-ma-ri là để công khai tiếp nhận những người Sa-ma-ri tin Chúa vào trong Hội Thánh.

15 Các người ấy đã đi xuống, cầu nguyện cho họ để họ có thể nhận thánh linh.

16 Vì thánh linh chưa giáng trên dù chỉ một người trong họ. Họ đã chịu báp-tem chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus.

Mục đích thứ nhì của các sứ đồ khi cử Phi-e-rơ và Giăng đến thành Sa-ma-ri là để cầu nguyện cho những người mới tin Chúa được nhận thánh linh. Vì thánh linh chưa giáng xuống trên bất cứ người nào trong số những người mới tin Chúa. Lý do khiến những người Sa-ma-ri mới tin Chúa chưa nhận được thánh linh là vì Đức Thánh Linh chưa ngự vào trong thân thể của họ. Lý do Đức Thánh Linh chưa ngự vào trong thân thể của họ là vì họ đã chịu báp-tem chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus.

Không biết vì lý do gì mà Phi-líp đã làm báp-tem cho dân Sa-ma-ri chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus. Sự kiện này khiến cho chúng ta có thể hiểu rằng:

  • Dù là một người đầy ơn Chúa trong sự rao giảng Tin Lành và làm ra các dấu kỳ, phép lạ vĩ đại, nhưng Phi-líp vẫn có thể phạm lỗi. Vì Phi-líp không có mặt lúc Chúa truyền lệnh về cách thức làm báp-tem; và có thể trước đó, Phi-líp cũng đã không chú ý khi những người mới tin Chúa tại thành Giê-ru-sa-lem được làm báp-tem, nên ông đã không biết là phải làm báp-tem cho người mới tin Chúa vào trong danh của Đức Cha, của Đức Con, và của Đức Thánh Linh.

  • Thánh Kinh ghi rõ, vì những người mới tin Chúa tại thành Sa-ma-ri đã được làm báp-tem chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus nên họ không nhận được thánh linh. Thế mà ngày nay có vài giáo phái mang danh Chúa yêu cầu người tin Chúa phải chịu báp-tem vào trong danh của Đức Chúa Jesus. Đó là vì họ hiểu sai Công Vụ Các Sứ Đồ 2:38.

Phi-e-rơ đã nói với họ: Mỗi người trong các ngươi hãy hối cải và chịu báp-tem bởi danh của Đức Chúa Jesus Christ, vào trong sự tha thứ những tội, rồi các ngươi sẽ nhận sự ban cho Đức Thánh Linh.”

Chịu báp-tem bởi (G1909) danh của Đức Chúa Jesus Christ” không có nghĩa là “chịu báp tem vào trong (G1519) danh của Đức Chúa Jesus Christ”. Chịu báp-tem bởi danh của Đức Chúa Jesus Christ có nghĩa là chịu báp-tem đúng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Jesus Christ. Khi Hội Thánh làm báp-tem cho người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, là Hội Thánh làm báp-tem cho người ấy theo lệnh truyền của Đức Chúa Jesus Christ, được ghi lại trong Ma-thi-ơ 28:19-20.

Vậy, hãy đi! Các ngươi hãy khiến cho muôn dân trở nên môn đồ của Ta. Hãy báp-tem họ vào trong danh của Đức Cha, của Đức Con, và của Đức Thánh Linh, dạy họ giữ hết thảy mọi điều mà Ta đã truyền cho các ngươi. Và này, Ta ở với các ngươi luôn cho đến tận thế. A-men!” (Ma-thi-ơ 28:19-20).

Báp-tem vào trong danh của Đức Cha, của Đức Con, và của Đức Thánh Linh là báp-tem vào trong danh Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Chúng ta chú ý rằng, từ ngữ “danh” trong Ma-thi-ơ 28:19 là một danh từ số ít; có nghĩa là chỉ có một danh và danh ấy được dùng chung cho cả Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh.

Sự báp-tem chỉ vào trong danh của Đức Chúa Jesus khiến cho người được báp-tem không nhận được sự ban cho Đức Thánh Linh từ Đức Cha và không nhận được thánh linh từ Đức Thánh Linh.

17 Rồi, [Phi-e-rơ và Giăng] đặt tay trên họ, thì họ đã nhận thánh linh.

Các chữ trong hai dấu ngoặc vuông không có trong nguyên ngữ Thánh Kinh, nhưng được người dịch thêm vào để làm rõ nghĩa câu văn trong tiếng Việt.

Sau khi Phi-e-rơ và Giăng cầu nguyện cho những người mới tin Chúa thì hai ông đặt tay trên họ, và họ đã nhận được thánh linh. Thành Sa-ma-ri là một thành lớn. Số người tin Chúa có thể lên đến vài trăm hoặc vài ngàn. Chúng ta có thể hiểu rằng, Phi-e-rơ và Giăng không đi đến từng người để đặt tay trên mỗi người. Nhưng Phi-e-rơ và Giăng chỉ đặt tay trên hai người ở gần hai ông nhất. Sự Phi-e-rơ và Giăng cầu nguyện rồi đặt tay là cho một tập thể, không phải cho từng cá nhân. Tương tự như vậy là trường hợp Môi-se rảy máu của giao ước trên dân I-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô Ký 24:8). Môi-se đã không đi đến từng người trong số hàng triệu dân để rảy máu trên mỗi người; mà ông chỉ rảy trên những người đứng gần ông nhất, hoặc là rảy về hướng mà dân chúng đứng.

18 Si-môn thấy rằng, Đức Thánh Linh đã được ban cho bởi sự đặt tay của các sứ đồ, người đã đem tiền cho họ,

19 nói: Xin cũng hãy ban cho tôi năng lực này để tôi đặt tay trên bất cứ ai thì người ấy có thể nhận thánh linh.

Si-môn nhìn thấy sự kiện Đức Thánh Linh được ban cho người tin Chúa, sau khi Phi-e-rơ và Giăng đặt tay trên họ, thì ông mong muốn mình cũng có thể làm được như vậy. Si-môn đã đem tiền cho hai sứ đồ để xin được truyền năng lực. Si-môn không hiểu rằng, chẳng phải hai sứ đồ có năng lực làm điều đó, mà chính Chúa hành động như vậy, sau lời cầu nguyện phải lẽ của các sứ đồ cho những người thật lòng tin Chúa. Hành động đặt tay của hai sứ đồ chỉ là hình thức tiêu biểu cho sự tiếp nhận những người mới tin Chúa tại thành Sa-ma-ri vào trong Hội Thánh của Chúa, cũng là vào trong chính Chúa.

Chúng ta không rõ, dấu hiệu nào thể hiện rằng, những môn đồ mới tại thành Sa-ma-ri đã nhận được Đức Thánh Linh, mà Si-môn nhìn thấy. Có thể là họ đã nói các ngoại ngữ để tôn vinh Đức Chúa Trời.

Ngày nay, khi một người được nhận lãnh Đức Thánh Linh và được báp-tem trong thánh linh thì không cần phải có dấu hiệu gì thể hiện bên ngoài. Vì là không cần thiết. Nhưng vào buổi đầu, khi Hội Thánh được thành lập, thì các dấu hiệu thể hiện là quan trọng để xác chứng ý muốn của Đức Chúa Trời và củng cố lòng tin của con dân Chúa. Khi ấy, các sứ đồ cần sự ấn chứng là Đức Chúa Trời cũng ban sự cứu rỗi và ban Đức Thánh Linh cho dân Sa-ma-ri và các dân ngoại, như Ngài đã ban cho dân I-sơ-ra-ên.

Những người theo phong trào Ân Tứ và Ngũ Tuần dạy rằng, chỉ khi nào một người biết phát ra những âm thanh lắp ba lắp bắp vô nghĩa, còn gọi là “nói tiếng lạ”, thì người ấy mới được công nhận là đã được báp-tem bằng thánh linh. Họ viện dẫn rằng, khi Hội Thánh được thành lập, được báp-tem bằng thánh linh, thì ơn “nói tiếng lạ” đã được ban cho các môn đồ; nên người được báp-tem bằng thánh linh phải biết “nói tiếng lạ”. Tuy nhiên, trong ngày Hội Thánh được thành lập, được Đức Chúa Jesus báp-tem bằng thánh linh, dấu hiệu quan trọng nhất là Đức Thánh Linh lấy hình thể giống như lưỡi bằng lửa ngự xuống trên mỗi môn đồ. Dấu hiệu ấy còn quan trọng hơn là ơn nói các ngoại ngữ khác nhau để tôn vinh Đức Chúa Trời. Về ơn nói các ngoại ngữ, Công Vụ Các Sứ Đồ đoạn 2 đã liệt kê rõ tên từng ngoại ngữ mà các môn đồ đã nói và có người nghe, hiểu, trong ngày Hội Thánh được thành lập. Ơn nói ngoại ngữ có người hiểu khác với hiện tượng lắp ba lắp bắp những âm thanh vô nghĩa chẳng ai hiểu. Ngoài ra, nếu đòi hỏi một người phải được ơn nói ngoại ngữ để xác chứng người ấy đã được báp-tem bằng thánh linh thì cũng phải đòi hỏi sự tái diễn của hiện tượng Đức Thánh Linh lấy hình giống như lưỡi bằng lửa ngự xuống trên người ấy.

Qua lời Si-môn yêu cầu các sứ đồ, chúng ta thấy, Si-môn chỉ mới tin Chúa bằng lý trí, bằng sự suy nghĩ của con người xác thịt; chứ không phải tin Chúa bằng thần trí, bằng sự nhận thức mình là một tội nhân cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua sự chết chuộc tội của Đấng Christ. Bản thân của Si-môn đã không nhận được Đức Thánh Linh và không được báp-tem trong thánh linh.

20 Nhưng Phi-e-rơ đã nói với người: Tiền của ngươi nên vào trong sự hư mất với ngươi, vì ngươi tưởng rằng, sự ban cho của Đức Chúa Trời có thể mua được bằng tiền.

21 Ngươi chẳng dự phần cũng chẳng có phần được chia trong sự này; vì lòng của ngươi chẳng ngay thẳng trước Đức Chúa Trời.

Sứ Đồ Phi-e-rơ đã lập tức quở trách Si-môn. Qua lời quở trách của Phi-e-rơ mà chúng ta hiểu rằng, Si-môn chưa ở trong sự cứu rỗi, vẫn còn ở trong sự hư mất, dù đã xưng nhận tin Chúa và đã chịu báp-tem.

Sự này” là sự cứu rỗi, sự Đức Chúa Trời tiếp nhận dân Sa-ma-ri vào trong Hội Thánh, ban cho họ Đức Thánh Linh; và Đức Thánh Linh đổ đầy trong họ thánh linh của Thiên Chúa.

Chẳng dự phần” là không thuộc về Hội Thánh, không thuộc về sự cứu rỗi.

Chẳng có phần được chia” là không được chia phần trong bất cứ sự ban cho nào của Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh.

Lòng chẳng ngay thẳng” là lòng muốn được nổi tiếng, muốn được nhiều người tung hô; và có thể là lòng muốn trục lợi.

22 Vậy, hãy ăn năn sự độc ác này của ngươi! Và hãy cầu nguyện Đức Chúa Trời để có thể ý tưởng của lòng ngươi sẽ được tha cho ngươi.

23 Vì ta thấy ngươi đang ở trong mật đắng và trong sự trói buộc của sự không công chính.

Tấm lòng chẳng ngay thẳng còn bị Đức Thánh Linh, qua miệng của Phi-e-rơ, gọi là sự độc ác. Cũng chính Đức Thánh Linh qua Phi-e-rơ đã kêu gọi Si-môn ăn năn.

Một người ăn năn thì phải tự mình kêu xin với Đức Chúa Trời. Tự mình xưng tội với Đức Chúa Trời và xin Đức Chúa Trời tha thứ cho mình. Lòng ăn năn chân thành có thể sẽ được Đức Chúa Trời tha thứ:

Của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, ấy là thần trí tan nát. Thiên Chúa ôi! Lòng tan nát, vỡ vụn Ngài sẽ không khinh dể đâu.” (Thi Thiên 51:17).

Nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Ngài là thành tín công chính để tha thứ cho chúng ta những tội lỗi của chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều không công chính.” (I Giăng 1:9).

Vì Đức Chúa Trời muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến với tri thức về lẽ thật. (I Ti-mô-thê 2:4).

Ở trong mật đắng” là một thành ngữ, có nghĩa là ở trong sự khốn khổ do sống trong tội. Phục Truyền Luật Lệ Ký 29:18 gọi tội từ bỏ Thiên Chúa để thờ lạy các tà thần là “rễ sinh ra chất độc và ngải cứu”. Ngải cứu là một loại dược thảo có vị rất đắng. Hê-bơ-rơ 12:15 cảnh cáo con dân Chúa về sự coi chừng “có rễ đắng nào sinh ra, làm ngăn trở, và bởi đó nhiều người bị ô uế”.

Ở trong sự trói buộc của sự không công chính” là ở trong ách nô lệ của tội lỗi.

Bởi sự thần cảm của Đức Thánh Linh, Phi-e-rơ nhìn thấy Si-môn đang ở trong tội lỗi, vẫn còn bị nô lệ cho tội lỗi, và chịu khổ vì tội lỗi.

24 Si-môn đã trả lời rằng: Xin các ông hãy cầu nguyện với Chúa cho tôi, để chẳng điều gì các ông đã nói sẽ đến trên tôi.

Câu trả lời của Si-môn vẫn là theo lý trí của xác thịt, chỉ không muốn bất cứ sự xấu nào xảy đến cho mình, chứ không thể hiện có sự ăn năn. Si-môn van xin các sứ đồ cầu nguyện cho mình, nhưng chính bản thân thì không lập tức ăn năn tội và cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ. Nhiều người sợ sự hình phạt của Đức Chúa Trời nhưng vẫn không muốn từ bỏ nếp sống tội. Tội được nhiều người ưa chuộng nhất, không muốn từ bỏ là tội kiêu ngạo và lòng tự ái không đúng. Tà thần lớn nhất trong cuộc đời này chính là “thần tôi” trong mỗi người.

25 Vậy, thực tế [Phi-e-rơ và Giăng] đã làm chứng và giảng Lời của Chúa thì quay trở về Giê-ru-sa-lem, cùng lúc họ đã giảng Tin Lành trong nhiều làng của người Sa-ma-ri.

Sự kiện Phi-e-rơ và Giăng làm chứng, giảng Lời của Chúa cho dân thành Sa-ma-ri là sự ấn chứng với họ rằng, những lời rao giảng của Phi-líp mà họ đã nghe và tin là lẽ thật.

Sau đó, Phi-e-rơ và Giăng đã quay trở lại Giê-ru-sa-lem; và trên đường về, hai ông đã dừng lại các làng của người Sa-ma-ri để giảng Tin Lành cho họ. Vào lúc ấy, có lẽ sự kiện dân thành Sa-ma-ri tin Chúa đã được lan truyền đến các vùng phụ cận. Cũng không ngoại trừ trường hợp có một số dân từ các làng chung quanh thành Sa-ma-ri, vào thành để mua bán hay có việc riêng, đã tin nhận Tin Lành qua lời rao giảng của Phi-líp. Những người đó đã đồng hành với Phi-e-rơ và Giăng trên đường hai ông về lại Giê-ru-sa-lem, và đã mời hai ông ghé lại giảng Tin Lành cho dân trong làng của họ.

Sự bách hại Hội Thánh luôn làm cho Hội Thánh được vững mạnh và phát triển càng hơn. Đặc tính của con dân chân thật của Chúa là dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ đi đến đâu thì giảng Tin Lành đến đó. Trong Hội Thánh lúc nào cũng có những người tin Chúa không thật lòng mà Phao-lô gọi là “những anh chị em giả dối” (II Cô-rinh-tô 11:26). Đối với những người tin Chúa cách giả dối, Đức Chúa Trời vẫn ban cho họ cơ hội ăn năn, qua sự quở trách và kêu gọi của những con dân chân thật của Ngài trong Hội Thánh.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
28/08/2021

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vàohttps://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf!

Karaoke Thánh Ca: “Xin Trọn Lòng Tin Yêu”

https://karaokethanhca.net/xin-tron-long-tin-yeu

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.