Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL074 Đức Chúa Jesus Chữa Bệnh tại Ghê-nê-xa-rết, Bánh của Sự Sống và Bánh Hằng Sống

168 views

YouTube: https://youtu.be/dXVFwDy-o24

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL074 Đức Chúa Jesus Chữa Bệnh tại Ghê-nê-xa-rết
Bánh của Sự Sống và Bánh Hằng Sống
Ma-thi-ơ 14:34-36; Mác 6:53-56; Giăng 6:22-59

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Ma-thi-ơ 14:34-36

34 Khi họ đã ngang qua biển, họ đã vào đến xứ Ghê-nê-xa-rết.

35 Những người của nơi đó đã nhận biết Ngài. Họ đã sai người đến khắp các miền xung quanh. Họ đã đem đến Ngài hết thảy những kẻ có bệnh.

36 Họ đã xin Ngài rằng, họ chỉ sờ chạm vạt áo của Ngài. Bất cứ ai đã sờ chạm đều được chữa lành.

Mác 6:53-56

53 Khi họ đã ngang qua biển, họ đã vào đến xứ Ghê-nê-xa-rết. Họ đã lên bờ.

54 Khi họ đã ra khỏi thuyền thì dân chúng đã nhận biết Ngài ngay.

55 Họ đã chạy khắp cả miền xung quanh, đã bắt đầu khiêng những kẻ có bệnh trên giường, đến nơi họ đã nghe Ngài ở đó.

56 Bất cứ nơi nào Ngài đã vào đến, các làng, hoặc các thành, hoặc thôn quê, họ đã đặt những kẻ bệnh trên các đường phố và xin Ngài cho họ sờ chạm chỉ vạt áo của Ngài. Bất cứ ai đã sờ chạm Ngài đều được chữa lành.

Giăng 6:22-59

22 Ngày hôm sau, đoàn dân đã đứng nơi bờ biển bên kia. Họ đã thấy rằng, không có thuyền khác ở đó, ngoại trừ chiếc mà các môn đồ của Ngài đã vào, và rằng, Đức Chúa Jesus đã không vào thuyền với các môn đồ của Ngài, nhưng chỉ các môn đồ của Ngài đã đi.

23 Nhưng có mấy chiếc thuyền khác đã đến, từ thành Ti-bê-ri-át, gần nơi mà họ đã ăn bánh, sau khi Chúa đã tạ ơn.

24 Vậy, khi đoàn dân thấy rằng, Đức Chúa Jesus đã không ở đó, các môn đồ của Ngài cũng không, thì họ vào trong các thuyền ấy và đã đến thành Ca-bê-na-um để tìm Đức Chúa Jesus.

25 Họ đã tìm được Ngài tại bờ bên kia biển. Họ đã thưa với Ngài: “Ra-bi! Ngài đã ở đây khi nào?”

26 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, các ngươi tìm Ta chẳng phải vì các ngươi đã thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và đã được no.

27 Hãy làm việc chẳng vì đồ ăn hay hư hại, nhưng vì đồ ăn còn lại cho đến sự sống vĩnh cửu, mà Con Người sẽ ban cho các ngươi. Vì Đức Cha là Đức Chúa Trời, đã đóng ấn trên Ngài.”

28 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để chúng tôi làm những công việc của Đức Chúa Trời?”

29 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Đây là công việc của Đức Chúa Trời. Ấy là các ngươi tin nơi Đấng mà Ngài đã sai đến.”

30 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Thế thì Ngài làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy và tin Ngài? Ngài làm công việc gì?

31 Các tổ phụ của chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, như đã chép: Ngài đã ban cho họ bánh từ trời để ăn.” [Xuất Ê-díp-tô Ký 16:21; Dân Số Ký 11:8].

32 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, Môi-se đã chẳng cho các ngươi bánh từ trời, nhưng Cha của Ta ban cho các ngươi bánh thật từ trời.

33 Vì bánh của Đức Chúa Trời là Đấng từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian.”

34 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Lạy Chúa! Xin luôn ban bánh ấy cho chúng tôi!”

35 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Ta là bánh của sự sống! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin nơi Ta sẽ không bao giờ khát!

36 Nhưng Ta đã nói với các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta mà không tin.

37 Những ai mà Cha ban cho Ta sẽ đến với Ta. Ai đến với Ta, Ta sẽ không hề đuổi ra ngoài.

38 Vì Ta từ trời xuống, chẳng phải để làm theo ý muốn của Ta, nhưng làm theo ý muốn của Đấng đã sai Ta.

39 Đây là ý muốn của Cha, Đấng đã sai Ta, ấy là bất cứ ai mà Ngài ban cho Ta, Ta sẽ không làm mất khỏi Ta, nhưng làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

40 Đây là ý muốn của Đấng đã sai Ta, ấy là bất cứ ai thấy Con và tin nơi Ngài thì được sự sống vĩnh cửu. Ta sẽ làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.”

41 Vậy, những người Do-thái đã lầm bầm về Ngài. Vì Ngài đã phán, Ta là bánh từ trời xuống.

42 Họ đã nói: “Chẳng phải đây là Jesus, con của Giô-sép, mà chúng ta biết cha và mẹ của người sao? Vậy thì làm sao người nói, ta đã từ trời xuống?”

43 Vậy, Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Chớ lầm bầm giữa các ngươi!

44 Không ai có thể đến với Ta, ngoại trừ Cha, Đấng đã sai Ta, kéo người ấy đến. Ta sẽ làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

45 Trong các sách tiên tri đã được chép: Hết thảy họ sẽ được dạy về Đức Chúa Trời. Vậy, mỗi người đã nghe và đã học về Cha thì đến với Ta. [Ê-sai 54:13; Giê-rê-mi 31:34]

46 Dù vậy, chẳng có ai đã từng thấy Cha, ngoại trừ Đấng từ Đức Chúa Trời. Đấng ấy đã thấy Cha.

47 Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, ai tin nơi Ta thì được sự sống vĩnh cửu.

48 Ta là bánh của sự sống.

49 Các tổ phụ của các ngươi đã ăn ma-na trong đồng vắng, và đã chết!

50 Đây là bánh từ trời xuống để người nào ăn nó thì không chết.

51 Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Nếu người nào ăn bánh này, người ấy sẽ sống cho tới vĩnh cửu. Bánh mà Ta sẽ ban cho là thịt của Ta mà Ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian.”

52 Vậy, những người Do-thái đã tranh cãi giữa họ rằng: “Làm thế nào người này có thể cho chúng ta ăn thịt của người?”

53 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, trừ khi các ngươi ăn thịt của Con Người và uống máu của Ngài, các ngươi chẳng có sự sống trong các ngươi.

54 Ai ăn thịt của Ta và uống máu của Ta thì được sự sống vĩnh cửu. Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

55 Vì thịt của Ta là thức ăn thật, máu của Ta là thức uống thật.

56 Người ăn thịt của Ta và uống máu của Ta thì ở lại trong Ta, và Ta ở trong người ấy.

57 Như Cha Hằng Sống đã sai Ta, và Ta sống bởi Cha, cũng vậy, người ăn Ta thì người ấy cũng sẽ sống bởi Ta.

58 Đây là bánh từ trời xuống, chẳng phải như các tổ phụ của các ngươi đã ăn ma-na và chết, người ăn bánh này sẽ sống cho tới vĩnh cửu.”

59 Ngài đã phán những điều này trong nhà hội, khi Ngài giảng dạy tại thành Ca-bê-na-um.

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về một lời rao giảng rất quan trọng của Đức Chúa Jesus Christ. Lời rao giảng ấy đã được Ngài đúc kết trong hai câu: “Ta là bánh của sự sống” (Giăng 6:48), và “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống” (Giăng 6:51a). Nhưng trước hết, chúng ta hãy học về sự Đức Chúa Jesus Christ chữa lành những người có bệnh tại Ghê-nê-xa-rết.

Ma-thi-ơ 14:34-35

34 Khi họ đã ngang qua biển, họ đã vào đến xứ Ghê-nê-xa-rết.

35 Những người của nơi đó đã nhận biết Ngài. Họ đã sai người đến khắp các miền xung quanh. Họ đã đem đến Ngài hết thảy những kẻ có bệnh.

Mác 6:53-55

53 Khi họ đã ngang qua biển, họ đã vào đến xứ Ghê-nê-xa-rết. Họ đã lên bờ.

54 Khi họ đã ra khỏi thuyền thì dân chúng đã nhận biết Ngài ngay.

55 Họ đã chạy khắp cả miền xung quanh, đã bắt đầu khiêng những kẻ có bệnh trên giường, đến nơi họ đã nghe Ngài ở đó.

Khi họ đã ngang qua biển” là ngay sau khi Đức Chúa Jesus cùng Phi-e-rơ từ trên mặt biển bước vào thuyền, thì gió lặng, sóng êm, và thuyền cập bến.

Xứ Ghê-nê-xa-rết” nằm trên bờ tây của Biển Ga-li-lê. Đó là một vùng đất phì nhiêu, hình lưỡi liềm, có bề rộng khoảng 4 km và bề dài khoảng 6 km. Khu dân cư là thành Ghê-nê-xa-rết, ở về phía nam của thành Ca-bê-na-um khoảng 5 km và ở về phía bắc của thành Ma-ga-đan cũng khoảng 5 km.

Chúng ta có thể hiểu rằng, thuyền đã cập bến của thành Ghê-nê-xa-rết. Khi đó, trời cũng vừa sáng, dân chúng tại đó nhận biết Đức Chúa Jesus. Vì thế, họ đã sai người đi đến các miền xung quanh, có lẽ đến tận Ca-bê-na-um và Ma-ga-đan để báo tin và đem những người có bệnh đến với Chúa. Những người bệnh nặng, không thể tự bước đi, thì được khiêng đến trên giường.

Chúng ta cũng có thể hiểu rằng, danh tiếng về sự chữa bệnh, đuổi quỷ của Đức Chúa Jesus đã loan truyền khắp nơi, trong toàn xứ Ca-na-an thời bấy giờ. Bất cứ đi đến đâu, Đức Chúa Jesus cũng chữa lành hết thảy những người có bệnh và bị quỷ ám. Thế nhưng, sau đó, vẫn có người bị bệnh và vẫn có người bị quỷ ám. Đó là thực tế của thế gian, kể từ sau khi loài người sa ngã, phạm tội. Ngay cả những người đã được Đức Chúa Jesus chữa bệnh hoặc đuổi quỷ cũng vẫn có thể bị bệnh trở lại và bị quỷ ám trở lại càng tệ hại hơn, nếu họ không ăn năn tội, không tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 12:45; Giăng 5:14).

Nói như thế không có nghĩa là con dân Chúa thì sẽ không bị bệnh. Sứ Đồ Phao-lô và Ép-ba-phô-đích cũng từng bị bệnh gần chết. Con dân Chúa có thể bị bệnh vì không giữ vệ sinh thân thể, không tiết độ trong cuộc sống; không từ bỏ các thứ gây độc hại cho thân thể, như ghiền thuốc lá, rượu, ma túy. Con dân Chúa cũng có thể bị bệnh vì phạm tội, nhất là bị các chứng bệnh truyền nhiễm do gian dâm. Con dân Chúa cũng có thể bị bệnh do ma quỷ gây ra, như Sa-tan đã từng gây ra trên thân thể của Gióp.

Xưa nay, biết bao con dân Chúa bị bệnh mà nhiều khi không được Chúa chữa lành. Nhiều con dân Chúa đã chết trong sự tật bệnh. Vì đó là ý muốn của Chúa cho họ phải chịu khổ trong tật bệnh. Điều quan trọng khi chúng ta mắc phải bệnh là chúng ta kêu cầu xin Chúa chữa lành. Nếu Chúa không chọn chữa lành cho chúng ta cách siêu nhiên thì chúng ta có thể dùng thuốc và nhờ bác sĩ. Vì chính Chúa đã dạy: “Những người khỏe mạnh thì chẳng cần thầy thuốc, nhưng những người có bệnh” (Ma-thi-ơ 9:12; Lu-ca 5:31). Nếu Chúa cũng không dùng thuốc hay bác sĩ chữa lành cho chúng ta thì chúng ta vẫn cảm tạ Ngài, và vui nhận sự chịu khổ trong tật bệnh mà Chúa cho phép xảy ra cho chúng ta. Vì chúng ta sống bằng đức tin (Ha-ba-cúc 2:4; Rô-ma 1:17; II Cô-rinh-tô 5:7; Hê-bơ-rơ 10:38). Chúng ta biết và tin rằng: “mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu Đức Chúa Trời, là những người được gọi theo một mục đích của Ngài” (Rô-ma 8:28).

Ma-thi-ơ 14:36

36 Họ đã xin Ngài rằng, họ chỉ sờ chạm vạt áo của Ngài. Bất cứ ai đã sờ chạm đều được chữa lành.

Mác 6:56

56 Bất cứ nơi nào Ngài đã vào đến, các làng, hoặc các thành, hoặc thôn quê, họ đã đặt những kẻ bệnh trên các đường phố và xin Ngài cho họ sờ chạm chỉ vạt áo của Ngài. Bất cứ ai đã sờ chạm Ngài đều được chữa lành.

Có lẽ câu chuyện người đàn bà bị bệnh mất máu suốt mười hai năm nhưng chỉ cần bởi đức tin, sờ chạm vạt áo của Chúa thì được lành bệnh, đã loan truyền đi khắp nơi (Ma-thi-ơ 9:20; Lu-ca 8:44). Vì thế, lần này, khi Đức Chúa Jesus đến Ghê-nê-xa-rết thì những người có bệnh đã xin phép Ngài cho họ, chỉ sờ chạm vạt áo của Ngài. Tất cả những người bệnh sờ chạm vạt áo của Chúa đều được lành bệnh.

Dĩ nhiên, không phải vạt áo của Chúa có quyền năng chữa lành những ai sờ chạm nó. Nhưng những ai có đức tin vào sự chữa lành của Chúa, sờ chạm vào vạt áo của Ngài để thể hiện đức tin và lời cầu xin được chữa lành của họ, thì chính Chúa đã chữa lành cho họ. Tương tự như vậy là trường hợp sau này, khi khăn và áo của Sứ Đồ Phao-lô được đặt trên người bệnh hoặc người bị quỷ ám, thì họ đều được chữa lành. Nhưng Thánh Kinh ghi rõ, đó là Đức Chúa Trời đã dùng Phao-lô để làm ra những phép lạ khác thường ấy (Công Vụ Các Sứ Đồ 19:11-12).

Giăng 6:22-24

22 Ngày hôm sau, đoàn dân đã đứng nơi bờ biển bên kia. Họ đã thấy rằng, không có thuyền khác ở đó, ngoại trừ chiếc mà các môn đồ của Ngài đã vào, và rằng, Đức Chúa Jesus đã không vào thuyền với các môn đồ của Ngài, nhưng chỉ các môn đồ của Ngài đã đi.

23 Nhưng có mấy chiếc thuyền khác, từ thành Ti-bê-ri-át, đã đến gần nơi mà họ đã ăn bánh, sau khi Chúa đã tạ ơn.

24 Vậy, khi đoàn dân thấy rằng, Đức Chúa Jesus đã không ở đó, các môn đồ của Ngài cũng không, thì họ vào trong các thuyền ấy và đã đến thành Ca-bê-na-um để tìm Đức Chúa Jesus.

Ngày hôm sau” là ngày kế tiếp, khi Đức Chúa Jesus và các môn đồ của Ngài đã đến Ghê-nê-xa-rết.

Bờ biển bên kia” là bờ biển đối diện với Ghê-nê-xa-rết, ở về phía nam của thành Bê-tết-đa, nơi Đức Chúa Jesus đã làm phép lạ, hóa ra nhiều bánh và cá cho hơn 5.000 người ăn.

Đoàn dân được Chúa cho ăn bánh và cá đã được Chúa giải tán vào tối hôm trước, sáng hôm sau, họ đã trở lại tìm Ngài thì không thấy Ngài. Họ nhớ là chiều hôm trước, các môn đồ của Chúa đã xuống thuyền để đi sang bờ đối diện, nhưng Chúa thì không xuống thuyền. Lúc bấy giờ, họ muốn rời khỏi nơi đó, sang phía bờ đối diện để tìm Chúa, nhưng tại đó không có thuyền nào khác hơn là chiếc thuyền mà các môn đồ của Chúa đã dùng.

Không bao lâu, có mấy chiếc thuyền từ Ti-bê-ri-át đã ghé lại chỗ của họ, và họ đã xuống thuyền để đi đến thành Ca-bê-na-um. Ti-bê-ri-át là thành nằm về phía nam của Ghê-nê-xa-rết. Có lẽ đây là thuyền chở khách và hàng hóa, từ Ti-bê-ri-át đến Bết-sai-đa; rồi từ Bết-sai-đa đến Ca-bê-na-um. Có lẽ đoàn dân nghĩ rằng, Chúa và các môn đồ của Ngài đã về lại Ca-bê-na-um, nên họ đến đó để tìm Ngài.

Giăng 6:25-27

25 Họ đã tìm được Ngài tại bờ bên kia biển. Họ đã thưa với Ngài: “Ra-bi! Ngài đã ở đây khi nào?”

26 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, các ngươi tìm Ta chẳng phải vì các ngươi đã thấy các dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và đã được no.

27 Hãy làm việc chẳng vì đồ ăn hay hư hại, nhưng vì đồ ăn còn lại cho đến sự sống vĩnh cửu, mà Con Người sẽ ban cho các ngươi. Vì Đức Cha là Đức Chúa Trời, đã đóng ấn trên Ngài.”

Theo câu 59 thì “bờ bên kia biển” được nói đến trong câu 25 chính là bờ biển của thành Ca-bê-na-um. Chúng ta có thể hiểu rằng, sau khi Đức Chúa Jesus đã chữa lành những người có bệnh tại Ghê-nê-xa-rết, thì Ngài và các môn đồ đã đi đến Ca-bê-na-um. Một chặng đường khoảng 5 km.

Đoàn dân biết là chiều hôm trước, Đức Chúa Jesus đã không cùng xuống thuyền với các môn đồ. Nhưng vào lúc ấy, Ngài đã có mặt tại Ca-bê-na-um với các môn đồ. Vì thế, họ đã ngạc nhiên và hỏi Ngài: “Ra-bi! Ngài đã ở đây khi nào?” Ra-bi là danh xưng người I-sơ-ra-ên dùng để gọi các bậc thầy giảng dạy Thánh Kinh Cựu Ước, vào thời bấy giờ. Nó có nghĩa là: Đấng vĩ đại của tôi, Đấng đáng tôn kính của tôi; với nghĩa rộng là: Thầy của tôi, người dẫn dắt đời tôi. Đó là danh hiệu mà Đức Chúa Jesus Christ dạy các môn đồ của Ngài là không nên để cho người ta gọi họ (Ma-thi-ơ 23:8). Thực tế, chỉ có Đấng Christ mới xứng đáng với danh hiệu đó.

Đức Chúa Jesus đã không trả lời câu hỏi của họ mà Ngài nói thẳng điều Ngài nhận biết về họ. Mỗi khi cần nhấn mạnh đến lẽ thật mà Ngài sắp bày tỏ, Đức Chúa Jesus thường mở đầu câu nói bằng hai chữ “a-men”, được dịch là: quả thật hay thật sự. Ngài biết rõ, đoàn dân đi tìm Ngài không phải là vì phép lạ Ngài đã làm, để công nhận Ngài là Đấng Christ và tin nhận sự giảng dạy của Ngài, vâng theo lời kêu gọi ăn năn tội của Ngài. Nhưng họ đi tìm Ngài để mong Ngài cung cấp cho họ những nhu cầu thuộc thể. Buổi chiều hôm trước, họ đã có ý tôn Ngài làm vua. Lòng họ không hướng đến các lẽ thật do Ngài giảng dạy mà chỉ hướng đến sự được hưởng thụ những nhu cầu vật chất. Họ không hướng về những sự ở trên trời, là những sự còn lại đời đời. Họ chỉ hướng về những sự ở dưới đất, là những sự sẽ nhanh chóng qua đi. Lời Chúa dạy cho con dân Chúa rằng, họ phải nghĩ đến những sự ở trên trời, thay vì những sự ở trên đất (Cô-lô-se 3:2-5).

Lời Đức Chúa Jesus kêu gọi đoàn dân về sự làm việc có nghĩa là đừng làm gì theo ý riêng mà hãy làm những gì Đức Chúa Trời muốn họ làm. Những việc làm theo ý riêng chỉ có thể đem lại những ích lợi tạm thời, chóng qua. Những việc làm theo ý của Đức Chúa Trời luôn đem lại sự ích lợi còn tới đời đời, là sự sống vĩnh cửu. Sự sống vĩnh cửu là sự mãi mãi sống hạnh phúc trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời (Khải Huyền 22:1-6); khác với sự chết vĩnh cửu là sự đời đời chịu khổ trong hỏa ngục, xa cách mặt Chúa và sự vinh quang của Ngài (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:9).

Danh từ “đồ ăn” có nghĩa đen là thức ăn nuôi dưỡng thân thể xác thịt; có nghĩa bóng là ân điển của Thiên Chúa nuôi sống thân thể thuộc linh là tâm thần, cùng với bản ngã là linh hồn.

Con Người” là “con của loài người”, một danh tự xưng của Đức Chúa Jesus để khẳng định, Ngài hoàn toàn là loài người, được sinh ra bởi loài người. Chính Ngài là Đấng ban sự sống lại và sự sống đời đời cho những ai tin nhận Ngài và trung tín cho tới chết:

…Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin nơi Ta, dù người ấy đã chết thì cũng sẽ sống.” (Giăng 11:25).

Hãy trung tín cho tới chết, và Ta sẽ ban cho ngươi mão sự sống.” (Khải Huyền 2:10b).

Thời xưa cũng như thời nay, con dấu được dùng đóng trên một văn bản để chứng nhận nó được công nhận bởi người đóng dấu. Đức Chúa Trời đã đóng dấu trên Đức Chúa Jesus, bằng cách phó thác Đấng Thần Linh cho Ngài không bởi sự đo lường, nghĩa là không có sự giới hạn (Giăng 3:34), để công nhận Ngài là Đấng Christ đã được hứa trong Thánh Kinh, được sai vào trong thế gian bởi Đức Chúa Trời để rao giảng về Thiên Chúa, và để thi hành công tác cứu chuộc loài người.

Giăng 6:28-29

28 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Chúng tôi phải làm gì để chúng tôi làm những công việc của Đức Chúa Trời?”

29 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Đây là công việc của Đức Chúa Trời. Ấy là các ngươi tin nơi Đấng mà Ngài đã sai đến.”

Đoàn dân đã sốt sắng, hỏi Đức Chúa Jesus rằng, họ phải làm gì để làm những công việc của Đức Chúa Trời. Câu trả lời của Đức Chúa Jesus là chân lý muôn đời: “Đây là công việc của Đức Chúa Trời. Ấy là các ngươi tin nơi Đấng mà Ngài đã sai đến.”

Việc làm đầu tiên mà Đức Chúa Trời muốn một người làm là tin nhận Đức Chúa Jesus Christ. Người tin nhận Đức Chúa Jesus Christ thì tin nhận và làm theo mọi lời phán dạy của Ngài.

  • Tin rằng, Ngài là Con của Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng Christ, tức Đấng Cứu Rỗi của loài người, được Đức Chúa Trời ban cho loài người. Bởi đức tin mà tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài.

  • Tin rằng, Ngài là Thiên Chúa nhập thế làm người, hoàn toàn là Thiên Chúa mà cũng hoàn toàn là loài người. Bởi đức tin mà thờ phượng Ngài và phụng sự Ngài.

  • Tin rằng, mình có tội vì đã vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời và cần phải ăn năn để được sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Bởi đức tin mà từ bỏ mọi sự phạm tội.

  • Tin rằng, Đấng Christ phải chịu chết để làm tế lễ chuộc tội cho mình. Bởi đức tin mà không tìm kiếm sự cứu rỗi ngoài sự chết Đấng Christ.

  • Tin rằng, Vương Quốc Trời đang đến và chỉ những ai tin nhận Đức Chúa Jesus Christ thì mới được vào Vương Quốc Trời. Bởi đức tin mà sốt sắng sống theo gương của Đấng Christ và trung tín cho tới chết.

  • Tin rằng, Đấng Christ là sự sống lại và sự sống đời đời. Ngài sẽ ban sự sống lại và sự sống đời đời cho những ai tin nhận Ngài. Bởi đức tin mà không sợ sự chết và không ngại chịu khổ vì danh Chúa.

  • Tin rằng, Đức Chúa Jesus Christ là Đường Đi, là Lẽ Thật, và là Sự Sống. Chẳng bởi Ngài thì không ai có thể đến với Đức Chúa Trời. Bởi đức tin mà không chấp nhận bất cứ sự dạy dỗ nào không đúng với Lời Chúa.

Chỉ sau khi một người thật lòng tin nhận Đấng Christ thì người ấy mới có thể làm những công việc khác của Đức Chúa Trời. Đó là những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho những ai thật lòng tin nhận Đấng Christ (Ê-phê-sô 2:10).

Giăng 6:30-31

30 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Thế thì Ngài làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy và tin Ngài? Ngài làm công việc gì?

31 Các tổ phụ của chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, như đã chép: Ngài đã ban cho họ bánh từ trời để ăn.” [Xuất Ê-díp-tô Ký 16:21; Dân Số Ký 11:8].

Đoàn dân đã từng thấy bao nhiêu phép lạ Đức Chúa Jesus đã làm ra. Họ đã nhìn thấy hết thảy những ai có tật bệnh hoặc bị quỷ ám đều được Ngài chữa lành. Vừa mới ngày hôm qua, tận mắt họ chứng kiến Đức Chúa Jesus làm phép lạ hóa ra nhiều bánh và nhiều cá từ năm cái bánh mạch nha và hai con cá nhỏ, cho hơn 5.000 người ăn mà vẫn còn dư 12 giỏ đầy. Họ chính là những người ăn bánh ấy và cá ấy. Thế mà họ vẫn còn đòi hỏi Đức Chúa Jesus phải làm ra phép lạ để chứng minh Ngài là Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi do Đức Chúa Trời ban cho loài người.

Chính họ nhắc lại sự việc các tổ phụ của họ đã được Đức Chúa Trời ban cho thức ăn từ trời rơi xuống, trong đồng vắng, là ma-na, như là một ý kiến đưa ra để Đức Chúa Jesus làm ra một phép lạ tương tự.

Giăng 6:32-33

32 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, Môi-se đã chẳng cho các ngươi bánh từ trời, nhưng Cha của Ta ban cho các ngươi bánh thật từ trời.

33 Vì bánh của Đức Chúa Trời là Đấng từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian.”

Đức Chúa Jesus đã giảng giải cho họ rằng, ma-na mà các tổ phụ của họ ăn không phải ra từ thiên đàng. Điều đó có nghĩa là, dù chúng được làm ra như thế nào thì cũng chỉ là thức ăn vật chất, được Đức Chúa Trời làm ra trong thế giới vật chất này. Nó chỉ có khả năng nuôi sống thân thể vật chất. Nếu để quá ngày thì nó trở nên hư hỏng, như bao nhiêu thức ăn vật chất khác.

Trong khi đó, họ đang đối diện với thức ăn thật ra từ thiên đàng, là Thiên Chúa nhập thế làm người, ban sự cứu rỗi cho họ và ban cho họ sự sống đời đời. Họ chỉ cần tin nhận Ngài để được sự sống đời đời.

Danh từ “bánh” được dùng để chỉ chung các thức ăn vật chất nuôi sống thân thể vật chất. Nhưng nó đã được Đức Chúa Jesus dùng để nói đến chính Ngài, được Đức Chúa Trời dùng để nuôi sống thân thể thiêng liêng của loài người là tâm thần và bản ngã của loài người là linh hồn. Khi tâm thần và linh hồn được sống thì thân thể xác thịt được sự sống lại và sống đời đời. Vì thế, Đức Chúa Jesus là bánh từ trời xuống, ban sự sống cho thế gian.

Giăng 6:34-36

34 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Lạy Chúa! Xin luôn ban bánh ấy cho chúng tôi!”

35 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Ta là bánh của sự sống! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin nơi Ta sẽ không bao giờ khát!

36 Nhưng Ta đã nói với các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta mà không tin.

Đoàn dân vẫn cứ nghĩ đến một loại bánh tương tự như ma-na nên họ cầu xin Đức Chúa Jesus cứ luôn ban cho họ bánh ấy. Vì thế, Đức Chúa Jesus đã tóm gọn một lời: “Ta là bánh của sự sống! Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin nơi Ta sẽ không bao giờ khát!” Đức Chúa Jesus muốn cho họ hiểu là Ngài không nói đến thức ăn và sự sống vật chất, nhưng nói đến thức ăn và sự sống thuộc linh. Sự đói thuộc linh là sự không có nếp sống thánh khiết để làm ra những việc làm thánh khiết nên cứ làm ra tội. Sự khát thuộc linh là sự không có sức sống thánh khiết nên cứ ham thích tội.

Đến với Đức Chúa Jesus có nghĩa là tin Ngài và làm theo những lời phán dạy của Ngài. Thân thể xác thịt thánh khiết không hề phạm tội của Đức Chúa Jesus phải chịu sự hình phạt mọi tội lỗi do thân thể xác thịt của loài người làm ra. Vì thế, những ai tin Ngài thì thân thể xác thịt của họ được hiệp một với thân thể xác thịt của Ngài. Cùng chết và cùng sống lại với Ngài, thân thể xác thịt của họ được trở nên thánh khiết để sống nếp sống thánh khiết, làm ra những việc thánh khiết, đẹp lòng Đức Chúa Trời. Máu thánh khiết vô tội của Đức Chúa Jesus đã đổ ra để rửa sạch bản tính tội trong bất cứ ai tin Ngài. Vì thế sức sống thánh khiết của Ngài tuôn đổ trong tâm thần và linh hồn của họ, để họ không còn những sự ham muốn tội lỗi mà chỉ ham muốn những sự thiêng liêng ở trên trời.

Giăng 6:37-38

37 Những ai mà Cha ban cho Ta sẽ đến với Ta. Ai đến với Ta, Ta sẽ không hề đuổi ra ngoài.

38 Vì Ta từ trời xuống, chẳng phải để làm theo ý muốn của Ta, nhưng làm theo ý muốn của Đấng đã sai Ta.

Ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời được ban cho toàn thể loài người.

Vì Ðức Chúa Trời đã yêu thế gian đến nỗi Ngài đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nơi Đấng ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh cửu.” (Giăng 3:16).

Ngài là:

Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến với tri thức về lẽ thật.” (I Ti-mô-thê 2:4).

Nhưng chỉ những ai thật lòng ăn năn tội, tin nhận ơn cứu rỗi của Ngài thì mới được Ngài ban họ cho Đấng Christ. Và khi Đức Chúa Trời đã ban họ cho Đấng Christ thì Đấng Christ sẽ không hề đuổi họ ra ngoài Vương Quốc của Đức Chúa Trời.

Đấng Christ đến thế gian để làm thành ý muốn của Đức Chúa Trời đã được ghi lại trong Giăng 3:16 và I Ti-mô-thê 2:4. Nhưng mỗi người có sự tự do lựa chọn. Hoặc là thật lòng tin nhận Đấng Christ, tức là tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và được sự sống đời đời. Hoặc là không tin nhận Đấng Christ, tức là từ chối ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và bị hư mất đời đời trong hỏa ngục.

Ai tin nơi Đức Con thì được sự sống vĩnh cửu, còn ai không tin Đức Con thì sẽ chẳng thấy sự sống, nhưng cơn giận của Đức Chúa Trời ở lại trên người ấy.” (Giăng 3:36).

Bất cứ ai không được tìm thấy được chép trong Sách Sự Sống thì bị ném vào hồ lửa.” (Khải Huyền 20:15).

Đoàn dân đông theo Chúa ngày này qua ngày kia, được chứng kiến biết bao phép lạ Ngài làm ra. Thế nhưng họ đã không tin Ngài. Họ không tìm kiếm sự cứu rỗi và sự công chính của Đức Chúa Trời. Họ chỉ tìm kiếm những sự thỏa mãn xác thịt của họ.

Giăng 6:39-40

39 Đây là ý muốn của Cha, Đấng đã sai Ta, ấy là bất cứ ai mà Ngài ban cho Ta, Ta sẽ không làm mất khỏi Ta, nhưng làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

40 Đây là ý muốn của Đấng đã sai Ta, ấy là bất cứ ai thấy Con và tin nơi Ngài thì được sự sống vĩnh cửu. Ta sẽ làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.”

Lời khẳng định của Đức Chúa Jesus hàm ý, bất cứ ai thật lòng ăn năn tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, thì Ngài ban người ấy cho Đức Chúa Jesus để làm công dân trong Vương Quốc Trời mà Đức Chúa Jesus sẽ cai trị. Đức Chúa Jesus sẽ không bao giờ để cho người ấy bị hư mất. Cho dù thân thể xác thịt của người ấy phải trải qua sự chết thì chính Đức Chúa Jesus sẽ làm cho nó được sống lại, trong ngày Ngài đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Đó là ngày cuối cùng của thời kỳ Hội Thánh trên đất.

Người thấy Đức Chúa Jesus và tin Đức Chúa Jesus là người được sự sống vĩnh cửu. Chữ “thấy” ở đây không có nghĩa là thấy bằng con mắt của xác thịt, nhưng thấy bằng con mắt của tâm linh, là sự nhận thức bởi thần trí. Chữ “tin” ở đây không có nghĩa chỉ là sự công nhận mà còn là sự làm theo điều đã công nhận. Có ích gì khi người bệnh tin bác sĩ nhưng không uống thuốc do bác sĩ đưa ra?

Giăng 6:41-42

41 Vậy, những người Do-thái đã lầm bầm về Ngài. Vì Ngài đã phán, Ta là bánh từ trời xuống.

42 Họ đã nói: “Chẳng phải đây là Jesus, con của Giô-sép, mà chúng ta biết cha và mẹ của người sao? Vậy thì làm sao người nói, ta đã từ trời xuống?”

Chúng ta thấy, Giăng không còn ghi là đoàn dân nhưng ghi là “những người Do-thái”. Vì Đức Thánh Linh muốn ông nhấn mạnh đến tính cách kiêu ngạo và cứng lòng của dân I-sơ-ra-ên.

Động từ “lầm bầm” có nghĩa là thì thầm nói lời than phiền, bất mãn, phản đối.

Họ lầm bầm về Đức Chúa Jesus vì Ngài xưng mình là “bánh từ trời xuống”. Họ biết rõ xuất thân của Ngài. Họ biết rõ về gia đình của Ngài. Chẳng qua, Ngài là con của một người thợ mộc, bản thân Ngài cũng làm thợ mộc. Vậy, làm sao Ngài lại xưng là từ trời xuống.

Xét về lý luận thì họ hoàn toàn có lý. Nhưng lý lẽ của loài người không thể giãi bày những sự thuộc về Thiên Chúa. Ngay cả việc Đức Chúa Jesus hóa ra nhiều bánh và cá cho họ ăn họ còn không thể lý giải được, thì làm sao họ có thể lý giải sự Ngài từ trời xuống.

Đức tin về Thiên Chúa và đức tin nơi Thiên Chúa là sự ban cho của Đức Chúa Trời, không phải là kết quả từ sự lý luận của loài người. Vì loài người không thể tự mình chứng minh sự thực hữu của Thiên Chúa. Chúng tôi tin rằng, Đức Chúa Trời ban cho mọi người đức tin về Thiên Chúa và đức tin trong Thiên Chúa. Chỉ những ai hạ mình nhận lãnh sự ban cho ấy thì họ mới có đức tin.

Đức tin về Thiên Chúa là tin rằng, có một Đấng Cao Siêu Tuyệt Đối tự thực hữu và là Đấng dựng nên muôn loài. Ngài ban cho loài người sự hiểu biết về Ngài và công việc của Ngài qua Thánh Kinh.

Đức tin nơi Thiên Chúa là sau khi tin Thiên Chúa có thật thì người tin hoàn toàn phó thác đời sống mình trong tay Thiên Chúa, sống theo Lời Hằng Sống của Ngài là Thánh Kinh.

Vì thế, sự ban cho đức tin là chung cho mọi người nhưng sự cứu rỗi chỉ ban cho những ai nhận lãnh đức tin và sống theo đức tin.

Giăng 6:43-46

43 Vậy, Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ rằng: “Chớ lầm bầm giữa các ngươi!

44 Không ai có thể đến với Ta, ngoại trừ Cha, Đấng đã sai Ta, kéo người ấy đến. Ta sẽ làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

45 Trong các sách tiên tri đã được chép: Hết thảy họ sẽ được dạy về Đức Chúa Trời. Vậy, mỗi người đã nghe và đã học về Cha thì đến với Ta. [Ê-sai 54:13; Giê-rê-mi 31:34]

46 Dù vậy, chẳng có ai đã từng thấy Cha, ngoại trừ Đấng từ Đức Chúa Trời. Đấng ấy đã thấy Cha.

Đức Chúa Jesus biết họ lầm bầm về Ngài nên Ngài đã phán bảo họ, chớ làm như vậy. Ngài khẳng định chỉ có những ai được Đức Chúa Trời ban cho Ngài, kéo họ đến với Ngài, thì họ mới có thể đến với Ngài để được thuộc về Ngài. Một lần nữa, Ngài khẳng định, Ngài sẽ làm cho những ai thuộc về Ngài được sống lại trong ngày cuối cùng.

Đức Chúa Jesus trích ý từ Ê-sai 54:13 và Giê-rê-mi 31:34 để xác nhận là mọi người đều được dạy về Đức Chúa Trời. Người đã nghe về Đức Chúa Trời, có lòng tìm kiếm, học hỏi về Đức Chúa Trời, thì đến với Đức Chúa Jesus. Về sau, Sứ Đồ Phao-lô đã khẳng định sự hiểu biết về Đức Chúa Trời đã được ban cho mỗi người, nhưng sự lựa chọn để tin và vâng phục Đức Chúa Trời thuộc về mỗi người.

Rô-ma 1:18-23

18 Cơn giận của Thiên Chúa từ trên trời tỏ ra nghịch lại mọi sự không tin kính và mọi sự không công chính của những người dùng sự không công chính mà cầm giữ lẽ thật.

19 Bởi vì sự hiểu biết về Đức Chúa Trời được chiếu ra trong họ. Vì Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho họ

20 những sự không thấy được của Ngài, từ sự sáng tạo thế gian là những vật thọ tạo được nhận biết, mà thấy rõ ràng cả năng lực và thần tính còn mãi của Ngài; cho nên, họ không thể chữa mình.

21 Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm vinh hiển Ngài như Thiên Chúa, và không tạ ơn Ngài nữa; nhưng cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm.

22 Họ tự xưng mình là khôn sáng, mà trở nên ngu dại;

23 họ đã đổi vinh quang của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng.

Dù sự hiểu biết về Đức Chúa Trời được chiếu ra trong thần trí của mỗi người nhưng chưa có ai nhìn thấy Đức Chúa Trời. Ngoại trừ sự nhìn thấy trong khải tượng, như Tiên Tri Đa-ni-ên đã nhìn thấy (Đa-ni-ên 7:9, 13, 22). Nhưng Đức Chúa Jesus, trong thân vị Thiên Chúa Ngôi Lời (Giăng 1:1-2, 18), đã thấy Đức Chúa Trời.

Giăng 6:47-51

47 Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, ai tin nơi Ta thì được sự sống vĩnh cửu.

48 Ta là bánh của sự sống.

49 Các tổ phụ của các ngươi đã ăn ma-na trong đồng vắng, và đã chết!

50 Đây là bánh từ trời xuống để người nào ăn nó thì không chết.

51 Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Nếu người nào ăn bánh này, người ấy sẽ sống cho tới vĩnh cửu. Bánh mà Ta sẽ ban cho là thịt của Ta mà Ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian.”

Một lần nữa, Đức Chúa Jesus khẳng định và nhấn mạnh về sự sống vĩnh cửu mà những ai tin Ngài sẽ nhận được. Ngài là sự sống nên ai tin nhận Ngài thì sẽ được sống. Sự sống của Ngài là sự sống của Thiên Chúa. Sự sống ấy có quyền trên sự chết của thân thể vật chất, khiến cho thân thể vật chất của những ai tin Ngài chẳng những được sống lại sau khi chết mà còn được biến hóa thành một thân thể vinh quang, bất tử.

Đức Chúa Jesus xưng nhận Ngài là bánh của sự sống, có nghĩa, Ngài là thực thể sống đem lại sự sống cho những ai tin nhận Ngài, như thức ăn vật chất đem lại sự sống cho thân thể vật chất.

Đức Chúa Jesus xưng nhận Ngài là bánh hằng sống, có nghĩa Ngài là nguồn của sự sống. Mọi sự sống của muôn loài thọ tạo ra từ Ngài. Những ai tin nhận Ngài sẽ nhận lãnh sự sống của chính Ngài, là sự sống đời đời.

Đức Chúa Jesus nhắc lại sự kiện những người I-sơ-ra-ên thuở xưa được ăn ma-na suốt 40 năm trong đồng vắng, nhưng họ đều chết. Vì dù ma-na là thức ăn do Đức Chúa Trời làm phép lạ cho dân I-sơ-ra-ên, nhưng ma-na không phải đến từ thiên đàng và không phải là bánh của sự sống. Những mẩu bánh do Đức Chúa Jesus làm phép lạ cho đoàn dân hơn 5.000 người ăn cũng không phải đến từ thiên đàng và cũng không phải là bánh của sự sống. Nhưng Đức Chúa Jesus là bánh từ thiên đàng xuống. Ngài là bánh của sự sống để những ai tin Ngài thì sẽ được sống lại. Ngài là bánh hằng sống để những ai tin Ngài thì được sống đời đời.

Mệnh đề “người nào ăn nó thì không chết” hàm ý, sự chết thuộc thể không có quyền trên người ấy. Cho dù sự chết thuộc thể có xảy ra cho thân thể xác thịt của người ấy thì nó vẫn sẽ được sống lại. Riêng về thuộc linh thì người ấy không còn bị xa cách Thiên Chúa, nhưng được sống hạnh phúc trong Ngài.

Chúng ta cần ghi nhớ điều này: Sự chết thuộc thể là sự thân thể xác thịt bị phân rẽ khỏi linh hồn và tâm thần. Sự chết thuộc linh là toàn thể con người, bao gồm linh hồn, tâm thần, và xác thịt đều bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa. Sự chết đời đời là tâm thần quay về cùng Đức Chúa Trời còn linh hồn và xác thịt mãi mãi bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa và chịu khổ trong hỏa ngục.

Bánh mà Ta sẽ ban cho là thịt của Ta mà Ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian.” Có nghĩa là sự sống Thiên Chúa ban cho loài người chính là sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus. Thân thể xác thịt loài người của Ngài phải chịu đau đớn và chết đi, vì gánh thay hình phạt của tội lỗi cho loài người. Những ai tin nhận sự Đấng Christ chết thay cho họ vì sự phạm tội của họ, thì họ được thoát khỏi hình phạt của tội lỗi. Thân thể xác thịt của họ được hiệp một với thân thể xác thịt của Đấng Christ, trở nên thánh khiết và được Đức Chúa Trời dùng để làm ra những việc lành, đem lại sự sống đời đời cho họ.

Từ ngữ “ăn bánh” có nghĩa đen là tiếp nhận thức ăn vật chất vào trong thân thể xác thịt để bảo tồn sự sống của thân thể xác thịt. Nghĩa bóng được Đức Chúa Jesus dùng là tiếp nhận sự chết chuộc tội của Ngài để được Đức Chúa Trời tha tội, được Ngài làm cho sạch tội, được Đức Thánh Linh ban cho thánh linh của Thiên Chúa, sống nếp sống thánh khiết đời đời trong những ngày còn lại ở thế gian và trong Vương Quốc Trời.

Giăng 6:52-56

52 Vậy, những người Do-thái đã tranh cãi giữa họ rằng: “Làm thế nào người này có thể cho chúng ta ăn thịt của người?”

53 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, trừ khi các ngươi ăn thịt của Con Người và uống máu của Ngài, các ngươi chẳng có sự sống trong các ngươi.

54 Ai ăn thịt của Ta và uống máu của Ta thì được sự sống vĩnh cửu. Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng.

55 Vì thịt của Ta là thức ăn thật, máu của Ta là thức uống thật.

56 Người ăn thịt của Ta và uống máu của Ta thì ở lại trong Ta, và Ta ở trong người ấy.

Với cá tính kiêu ngạo và cứng lòng, những người I-sơ-ra-ên không hiểu được lời phán của Đức Chúa Jesus. Họ tranh cãi với nhau về ý nghĩa lời phán của Chúa. Họ hiểu theo nghĩa đen về sự ăn thịt của Chúa. Nhưng Đức Chúa Jesus dùng nghĩa bóng để nói đến sự tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, tin nhận thân thể xác thịt của Ngài chịu chết để làm sinh tế chuộc tội cho loài người.

Ăn thịt của Đức Chúa Jesus là tin nhận sự chết của thân thể xác thịt Ngài để gánh thay hình phạt cho sự phạm tội của loài người. Đức tin đó khiến cho thân thể xác thịt của người tin được hiệp một với thân thể xác thịt của Đấng Christ và được nên thánh, có năng lực sống thánh khiết và làm ra những việc lành. Đức tin đó được thể hiện qua sự ăn bánh không men để nhớ đến sự chết của Đấng Christ. Bánh không men tiêu biểu cho thân thể thánh khiết vô tội của Đấng Christ đã bị vỡ ra, làm của lễ chuộc tội cho loài người, trở thành thức ăn thật, đem lại sự sống lại cho những ai tin.

Uống máu của Đức Chúa Jesus là tin nhận máu vô tội của Ngài đã đổ ra để rửa sạch bản tính tội của những ai tin nhận Ngài. Đức tin đó khiến cho sự sống của người tin được hiệp một với sự sống của Đấng Christ, khiến cho tâm thần và linh hồn của người ấy được rửa sạch bản tính tội lỗi, không còn ưa thích sự phạm tội, nhưng ưa thích những sự thuộc về Thiên Chúa. Đức tin đó được thể hiện qua sự uống nước nho để nhớ đến sự chết của Đấng Christ. Nước nho tiêu biểu cho máu thánh khiết vô tội của Đấng Christ đã đổ ra, làm sự thanh tẩy cho loài người, trở thành thức uống thật, đem lại sự sống đời đời cho những ai tin.

Người ăn thịt và uống máu của Đức Chúa Jesus Christ là người tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, chịu hiệp một với Ngài trong thể xác thịt lẫn trong sự sống. Người ấy trở nên một với Chúa như nhánh cây hoang được tháp vào gốc thánh. Người ấy ở trong Đấng Christ và Đấng Christ ở trong người ấy.

Người ở trong Đấng Christ là người tin cậy Chúa, vâng phục Chúa, sống theo Lời Chúa. Đấng Christ ở trong người ấy là sự sống của Ngài ở trong người ấy, khiến cho người ấy trở thành một chi thể của Ngài để Ngài hành động qua người ấy.

Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, nên tôi không còn sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Sự sống ấy mà tôi đang sống trong xác thịt, là tôi sống bởi đức tin vào trong Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” (Ga-la-ti 2:20).

Hình ảnh của gốc nho và nhánh nho gắn liền nhau minh họa cho sự một người ở trong Đấng Christ, như nhánh nho ở trong gốc nho; và Đấng Christ ở trong một người, như sự sống của gốc nho tuôn tràn trong nhánh nho.

Giăng 6:57-59

57 Như Cha Hằng Sống đã sai Ta, và Ta sống bởi Cha, cũng vậy, người ăn Ta thì người ấy cũng sẽ sống bởi Ta.

58 Đây là bánh từ trời xuống, chẳng phải như các tổ phụ của các ngươi đã ăn ma-na và chết, người ăn bánh này sẽ sống cho tới vĩnh cửu.”

59 Ngài đã phán những điều này trong nhà hội, khi Ngài giảng dạy tại thành Ca-bê-na-um.

Đức Chúa Jesus thường xuyên gọi Đức Chúa Trời là “Cha” vì về phương diện loài người, Ngài đã được Đức Chúa Trời sinh ra trong lòng trinh nữ Ma-ri. Ngài gọi Đức Chúa Trời là “Cha Hằng Sống” vì Đức Chúa Trời là Thiên Chúa tự có và có mãi.

Đức Chúa Trời đã sai Đức Chúa Jesus vào trong thế gian để rao giảng về Thiên Chúa và thi hành công cuộc cứu chuộc loài người. Sự sống của Đức Chúa Jesus trong thân vị loài người đến từ và được bảo tồn bởi Đức Chúa Trời. Sự sống ấy cũng là năng lực để Đức Chúa Jesus hoàn thành sự cứu chuộc loài người.

Những ai “ăn thịt” của Đức Chúa Jesus, có nghĩa là thật lòng tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài để thân thể xác thịt của họ được hiệp một với thân thể xác thịt của Ngài, thì họ cũng nhận được sự sống từ Đức Chúa Jesus và được sống đời đời với Ngài. Sự sống ấy cũng là năng lực để họ sống thánh khiết và làm trọn những việc lành Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho họ.

Xưa kia, trong suốt 40 năm, bằng phép lạ, Đức Chúa Trời đã ban cho dân I-sơ-ra-ên ma-na làm thức ăn. Nhưng ma-na không phải là bánh từ trời và không có năng lực làm cho những ai ăn nó được sống lại và sống đời đời.

Đức Chúa Jesus là nguồn sống từ trời đến để nuôi sống loài người, ban cho họ sự sống lại, nếp sống thánh khiết, và sự sống đời đời.

Sự sống lại bao gồm sự sống lại thuộc thể và sự sống lại thuộc linh. Sự sống lại thuộc thể là thân thể xác thịt của người tin nhận Đấng Christ sẽ được tái kết hợp với tâm thần và linh hồn. Sự sống lại thuộc linh là toàn thể của một người, bao gồm linh hồn, tâm thần, và xác thịt được tương giao trở lại với Thiên Chúa.

Nếp sống thánh khiết là nếp sống tin cậy, vâng phục Thiên Chúa và sống theo Lời Chúa là Thánh Kinh, để làm ra những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho một người.

Sự sống đời đời là mãi mãi sống trong vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa, trong Vương Quốc Trời.

Chúng ta hãy cùng nhau tiếp tục nhận lãnh bánh của sự sống cũng là bánh hằng sống mà Đức Chúa Trời là Cha kính yêu của chúng ta đã ban cho chúng ta. Nguyện nếp sống thánh khiết mỗi ngày của chúng ta là thức hương thơm tạ ơn dâng lên Ngài.

Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
10/08/2024

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

Karaoke Thánh Ca: “Con Xin Trọn Cuộc Đời”
https://karaokethanhca.net/con-xin-tron-cuoc-doi/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.