Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL094 Đức Chúa Trời Mạc Khải cho Trẻ Thơ, Ngụ Ngôn về Người Sa-ma-ri Nhân Từ

96 views

YouTube: https://youtu.be/bsDDBpFno0E

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL094 Đức Chúa Trời Mạc Khải cho Trẻ Thơ,
Ngụ Ngôn về Người Sa-ma-ri Nhân Từ,
Ma-thê và Ma-ri
Lu-ca 10:21-42

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Lu-ca 10:21-42

21 Trong giờ đó, Đức Chúa Jesus đã vui mừng trong tâm thần, nói rằng: “Lạy Cha, Chúa của trời và đất, Con tôn vinh Ngài, vì Ngài đã giấu những sự này khỏi những người khôn sáng và những người thông minh, mà đã tỏ ra cho chúng, những trẻ thơ. Thật vậy, thưa Cha, vì như vậy là tốt lành trước Ngài.”

22 “Mọi việc đã được giao cho Ta bởi Cha Ta. Không ai biết Con là ai, ngoài Cha, hoặc biết Cha là ai, ngoài Con và ai mà Con sẽ giãi bày.”

23 Kế đó, Ngài đã xoay lại với các môn đồ mà phán riêng rằng: “Phước cho những mắt nào thấy những gì các ngươi thấy!

24 Vì Ta bảo các ngươi rằng, nhiều tiên tri và nhiều vua đã ước ao thấy những gì các ngươi thấy mà họ đã chẳng thấy, đã ước ao nghe những gì các ngươi nghe mà họ đã chẳng nghe.”

25 Kìa, một thầy dạy luật kia đã đứng dậy, thử Ngài rằng: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để sẽ hưởng sự sống vĩnh cửu?”

26 Ngài đã phán với người: “Điều gì đã được chép trong luật pháp? Ngươi đọc như thế nào?”

27 Người đã đáp rằng: “Ngươi sẽ hết lòng của ngươi, hết linh hồn của ngươi, hết sức của ngươi, và hết tâm trí của ngươi mà yêu Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi; và sẽ yêu người lân cận của ngươi như chính mình.” [Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5; Lê-vi Ký 19:18]

28 Ngài đã bảo người: “Ngươi đã trả lời đúng. Hãy làm điều ấy, thì ngươi sẽ sống.”

29 Nhưng muốn xưng mình là công chính, người đã thưa với Đức Chúa Jesus: “Ai là người lân cận của tôi?”

30 Đức Chúa Jesus đã đáp rằng: “Có một người kia đã từ Giê-ru-sa-lem đi xuống tới Giê-ri-cô, và đã rơi vào những kẻ cướp. Chúng đã lột hết áo quần của người và đã đánh cho bị thương, rồi đi, để người gần chết.

31 Tình cờ, có một thầy tế lễ đã đi xuống đường đó. Khi thấy người thì ông đã đi tránh qua phía bên kia.

32 Cũng vậy, một người Lê-vi đã đến nơi, lại gần, thấy, rồi đã đi tránh qua phía bên kia.

33 Nhưng có một người Sa-ma-ri đi đường, đã đến gần người, nhìn thấy thì động lòng thương.

34 Ông đã đến gần, xức dầu và rượu, băng bó các vết thương của người, rồi đặt người trên con vật của mình, đem người đến quán trọ, mà săn sóc người.

35 Ngày hôm sau, ông đã lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán và nói: “Hãy săn sóc người. Nếu ngươi tốn hơn bao nhiêu hãy tính cho ta, khi ta quay lại, ta sẽ trả cho ngươi.”

36 Theo ngươi, ai trong ba người ấy đã là người lân cận của người đã rơi vào những kẻ cướp?”

37 Người đã thưa: “Người đã làm sự thương xót cho người ấy.” Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo người: “Hãy đi và ngươi hãy làm như vậy!”

38 Đã xảy ra, họ đang đi đường và Ngài đã vào trong một làng kia. Có người đàn bà kia, tên Ma-thê, đã đón Ngài vào trong nhà của mình.

39 Nàng đã có một em gái, gọi là Ma-ri, là người đang ngồi bên chân Chúa, nghe sự rao giảng của Ngài.

40 Ma-thê đã bận rộn nhiều về sự phục vụ, đã đến và thưa: “Lạy Chúa, Ngài không quan tâm em gái của tôi đã để tôi phục vụ một mình sao? Vậy, xin Ngài bảo nó để nó giúp tôi.”

41 Đức Chúa Jesus đã đáp lời, bảo nàng: “Hỡi Ma-thê! Ngươi lo lắng và bị bối rối về nhiều việc.

42 Nhưng có một việc là cần thiết. Ma-ri đã chọn phần tốt, là phần sẽ không bị cất đi khỏi người.”

Trong bài này, chúng ta tiếp tục học về các sự kiện đã xảy ra, trong khi Đức Chúa Jesus trên đường từ Ga-li-lê về lại Giê-ru-sa-lem để dự Lễ Lều Trại.

Khi bảy mươi môn đồ được Đức Chúa Jesus sai đi trước Ngài để giảng Tin Lành trong các thành và các làng mà Ngài sẽ đi ngang qua đã trở lại với Ngài, thì có lẽ Chúa và các môn đồ đã đến gần làng Bê-tha-ni.

Lu-ca 10:21-22

21 Trong giờ đó, Đức Chúa Jesus đã vui mừng trong tâm thần, nói rằng: “Lạy Cha, Chúa của trời và đất, Con tôn vinh Ngài, vì Ngài đã giấu những sự này khỏi những người khôn sáng và những người thông minh, mà đã tỏ ra cho chúng, những trẻ thơ. Thật vậy, thưa Cha, vì như vậy là tốt lành trước Ngài.”

22 “Mọi việc đã được giao cho Ta bởi Cha Ta. Không ai biết Con là ai, ngoài Cha, hoặc biết Cha là ai, ngoài Con và ai mà Con sẽ giãi bày.”

Sau khi nghe bảy mươi môn đồ tường trình linh vụ, Đức Chúa Jesus đã nói lời khích lệ họ. Ngay khi ấy, trong tâm thần của Ngài đã có sự vui mừng.

Sự vui mừng của thân thể thiêng liêng là tâm thần khác với sự vui mừng của thân thể vật chất là xác thịt. Sự vui mừng của xác thịt xảy ra khi năm giác quan nhận thức được điều đáng vui mừng, như khi được tặng một món quà quý giá, hoặc khi gặp lại người thân yêu đã xa cách lâu ngày. Sự vui mừng của tâm thần xảy ra khi tâm thần nhận thức điều đáng vui mừng mà xác thịt không thể nhận thức, như khi được nghe Chúa phán dạy trong tâm thần, hoặc khi hiểu biết Lời Chúa trong khi suy ngẫm.

Lý do Đức Chúa Jesus vui mừng trong tâm thần là vì kết quả chuyến đi của bảy mươi môn đồ đã cho thấy, họ hoàn toàn vâng phục Ngài và họ được Đức Chúa Trời ban cho sự hiểu biết thuộc linh.

Một lần khác, sau khi các môn đồ của Giăng Báp-tít được ông sai đến để hỏi rằng, Đức Chúa Jesus có phải là Đấng phải đến, tức Đấng Mê-si-a trong tiếng Hê-bơ-rơ, dịch sang tiếng Hy-lạp là Đấng Christ? Đức Chúa Jesus đã phán lời tương tự, như được ghi trong Ma-thi-ơ 11:25-27.

Chúng tôi xin trích dẫn lời chú giải Ma-thi-ơ 11:25-27 dưới đây.

Đức Chúa Jesus đã tạ ơn Đức Chúa Trời về sự kiện Đức Chúa Trời đã giấu những sự màu nhiệm về Tin Lành đối với những kẻ xưng mình là khôn sáng và thông minh. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ ra Tin Lành màu nhiệm cho những trẻ thơ.

Những kẻ xưng mình là khôn sáng và thông minh chính là những người Pha-ri-si, những thầy thông giáo trong Do-thái Giáo. Họ là những người suốt đời suy ngẫm và giải thích Thánh Kinh Cựu Ước, giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh Cựu Ước cho dân I-sơ-ra-ên. Nhưng họ không hiểu ý nghĩa những lời tiên tri về Đấng Mê-si-a và linh vụ của Ngài. Họ không hiểu Tin Lành Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời ban cho loài người qua Đấng Mê-si-a. Vì thế, họ không nhận biết Đức Chúa Jesus chính là Đấng Mê-si-a, tức là Đấng Christ. Đó là vì sự kiêu ngạo của họ. Đó cũng là tình trạng chung trong các trường Thánh Kinh và Thần học ngày nay của các giáo hội mang danh Chúa. Biết bao nhiêu người mang danh là tiến sĩ Thần học nhưng họ đã không hiểu được một lẽ thật căn bản, là con dân Chúa phải vâng giữ trọn vẹn Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Trong đó, có sự phải tôn thánh ngày Thứ Bảy là ngày Sa-bát của Thiên Chúa.

Những trẻ thơ chính là những người bình dân thất học hoặc ít học, trong đó, có các môn đồ của Chúa. Chính Đức Chúa Jesus đã phán bảo mọi người phải trở nên như đứa trẻ để được vào Vương Quốc Trời, phải khiêm nhường như đứa trẻ để trở nên lớn, trong Vương Quốc Trời (Ma-thi-ơ 18:3-4).

Đức Chúa Jesus đã dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự hiểu biết màu nhiệm về Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã ban cho những môn đồ của Ngài. Đức Chúa Jesus gọi sự những môn đồ của Ngài nhận biết Tin Lành, trong khi những kẻ khôn sáng của thế gian thì không nhận biết, là sự vui thỏa trước Đức Chúa Trời. Hay nói cách khác, Đức Chúa Trời thỏa lòng trong sự ấy. Về sau, Sứ Đồ Phao-lô đã nói lên lẽ thật này, trong I Cô-rinh-tô 1:26-29.

Mọi việc” bao gồm các việc: rao giảng Tin Lành, giãi bày về Thiên Chúa, thi hành sự chết chuộc tội cho loài người, thiết lập và cai trị Hội Thánh, phán xét toàn thế gian trong Kỳ Tận Thế, thi hành sự phán xét chung cuộc, thiết lập và cai trị Vương Quốc Trời.

Đức Chúa Trời nhận biết Đức Chúa Jesus là Đấng Christ, vì chính Ngài sinh ra thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus trong lòng trinh nữ Ma-ri, và ban chức vụ Đấng Christ cho Đức Chúa Jesus. Nếu không có sự giãi bày của Đức Chúa Trời trong thần trí của một người thì người ấy không thể nhận biết Đức Chúa Jesus là Đấng Christ. Khi Phi-e-rơ tuyên xưng Đức Chúa Jesus là “Đấng Christ, Con của Đức Chúa Trời Hằng Sống”, thì Đức Chúa Jesus đã phán rằng: “Phước cho ngươi! Hỡi Si-môn, con của Giô-na! Vì chẳng phải thịt và máu tỏ cho ngươi nhưng Cha của Ta, Đấng ở trong các tầng trời” (Ma-thi-ơ 16:16-17).

Trong vòng loài người, chỉ một mình Đức Chúa Jesus nhận biết Đức Chúa Trời. Vì Ngài ra từ trời và cùng là Thiên Chúa như Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã giãi bày về Thiên Chúa cho loài người (Giăng 1:18). Chỉ qua Đức Chúa Jesus mà một người mới có thể nhận biết, Đức Chúa Trời là Thiên Chúa và là Cha ở trên trời của mình. Đức Chúa Jesus chỉ bày tỏ về Đức Chúa Trời cho những ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, hết lòng sống theo Lời Chúa. Sự nhận biết về Đức Chúa Trời đến từ Đức Chúa Jesus không phải là sự nhận biết bằng lý trí, như các giáo sư Thần học, mà là sự nhận biết bằng thần trí, làm rung động cả linh hồn.

Trong lần phán trước, không thấy Ma-thi-ơ ghi là Đức Chúa Jesus có sự vui mừng trong tâm thần. Có lẽ trong lần phán thứ nhì này, Đức Chúa Jesus đã có sự vui mừng vì ngày càng có nhiều môn đồ nhận được sự ban cho từ Đức Chúa Trời.

Chúng ta không biết Lu-ca dựa vào đâu để biết là Đức Chúa Jesus có sự vui mừng trong tâm thần. Có lẽ, Đức Thánh Linh đã thần cảm cho ông biết như vậy. Có nghĩa là trong khi Lu-ca ghi lại sự việc mà ông đã nghe tường thuật từ các chứng nhân thì trong thần trí của ông có sự nhận thức rằng, Đức Chúa Jesus đã vui mừng trong tâm thần, khi Ngài phán lời ấy.

Lu-ca 10:23-24

23 Kế đó, Ngài đã xoay lại với các môn đồ mà phán riêng rằng: “Phước cho những mắt nào thấy những gì các ngươi thấy!

24 Vì Ta bảo các ngươi rằng, nhiều tiên tri và nhiều vua đã ước ao thấy những gì các ngươi thấy mà họ đã chẳng thấy, đã ước ao nghe những gì các ngươi nghe mà họ đã chẳng nghe.”

Câu 23 và câu 25 giúp cho chúng ta hiểu rằng, vẫn có đoàn dân đông đi theo Chúa. Khi cần thiết, Đức Chúa Jesus vẫn phán những lời riêng tư với các môn đồ của Ngài. Có những lời Chúa phán chung cho toàn thể loài người. Có những lời Chúa phán riêng cho những kẻ sẽ bị hư mất đời đời. Và có những lời Chúa phán riêng với những ai thuộc về Ngài.

Lời phán của Đức Chúa Jesus trong câu 23 và 24 cũng đã được Ngài phán trước đó cách tương tự, trong lần Ngài phán dạy dân chúng ngụ ngôn về người gieo giống. Chúng tôi xin trích đăng dưới đây lời chú giải Ma-thi-ơ 13:16-17.

Những môn đồ của Đức Chúa Jesus là những người có phước. Vì họ đã nhìn biết Đấng Christ là Đấng Cứu Rỗi của họ; họ đã nghe và hiểu mọi lẽ thật từ Ngài. Những môn đồ của Đức Chúa Jesus vào thời ấy, nói riêng, và toàn thể con dân Chúa trong Hội Thánh, nói chung, có phước hơn các tiên tri và những thánh đồ thuộc các thời trước. Vì các tiên tri và những thánh đồ ấy đã không có cơ hội được nghe và biết những gì Đức Chúa Jesus giảng dạy.

Qua lời dạy này của Đức Chúa Jesus, chúng ta hiểu rằng, các tiên tri và những thánh đồ thời trước đã được Đức Chúa Trời mạc khải về Đấng Christ, và họ khao khát được nghe Ngài giảng dạy. Chính Đức Chúa Jesus đã xác nhận rằng, Áp-ra-ham đã có sự mạc khải về Ngài.

Áp-ra-ham, tổ phụ của các ngươi, đã mừng rỡ được nhìn thấy ngày của Ta. Người đã thấy và đã vui mừng.” (Giăng 8:56).

Trên một phương diện khác, con dân Chúa trong Hội Thánh là những người có phước hơn tất cả con dân Chúa trong mọi thời khác. Vì chỉ có con dân Chúa trong Hội Thánh là được đồng trị với Đấng Christ và kết hiệp cách mầu nhiệm với Ngài. Ngoài ra, một số người trong Hội Thánh còn được hưởng phước không trải qua sự chết, nhưng thân thể xác thịt được biến hóa và được đem vào thiên đàng, trong ngày Đấng Christ trở lại để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Cảm tạ Chúa! Ngày ấy đã rất gần. Có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Nguyện rằng, mỗi con dân Chúa luôn tỉnh thức, sẵn sàng cho ngày thân thể xác thịt của mình được biến hóa.

Ngày nay, chúng ta cũng là những người rất có phước, vì chúng ta có trọn bộ Thánh Kinh trong tay, được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Chẳng những vậy, chúng ta còn có những phương tiện kỹ thuật giúp chúng ta đọc, học, lưu trữ, phổ biến, giảng dạy Lời Chúa một cách dễ dàng; giúp con dân Chúa được thông công với nhau cách thuận tiện; giúp cho sự rao giảng Tin Lành cũng được thuận tiện.

Lu-ca 10:25

25 Kìa, một thầy dạy luật kia đã đứng dậy, thử Ngài rằng: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để sẽ hưởng sự sống vĩnh cửu?”

“Thầy dạy luật” là người chuyên phụ trách việc giải thích và giảng dạy luật pháp của Đức Chúa Trời, như đã được ghi chép trong Thánh Kinh. Luật pháp của Đức Chúa Trời còn được gọi là “Luật của Môi-se” vì do Môi-se ghi chép và truyền lại cho dân I-sơ-ra-ên. Có thể nói, người giữ chức vụ “thầy dạy luật” trong dân I-sơ-ra-ên là người rất thông thạo về Thánh Kinh Cựu Ước.

Câu hỏi của thầy dạy luật nhằm mục đích để thử Đức Chúa Jesus. Sự thử này có lẽ là để thử sự hiểu biết của Đức Chúa Jesus về Thánh Kinh Cựu Ước và thử về sự nhất quán trong sự giảng dạy của Đức Chúa Jesus. Sự thử của thầy thông giáo không hẳn là sự tìm cách bắt bẻ Chúa mà chỉ nhằm để tìm ra lẽ thật.

Thánh Kinh Cựu Ước có vài chỗ nói về sự sống vĩnh cửu, như trong Thi Thiên 23:6, Đa-ni-ên 12:2, và Ê-sai 26:19. Nhưng không có chỗ nào giãi bày phải làm gì để được có sự sống vĩnh cửu.

Câu hỏi của thầy dạy luật cũng hàm ý, sự sống vĩnh cửu không phải là sự ban cho vô điều kiện nhưng là kết quả của việc làm.

Lu-ca 10:26-27

26 Ngài đã phán với người: “Điều gì đã được chép trong luật pháp? Ngươi đọc như thế nào?”

27 Người đã đáp rằng: “Ngươi sẽ hết lòng của ngươi, hết linh hồn của ngươi, hết sức của ngươi, và hết tâm trí của ngươi mà yêu Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi; và sẽ yêu người lân cận của ngươi như chính mình.” [Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5; Lê-vi Ký 19:18]

Đức Chúa Jesus đã không trực tiếp trả lời câu hỏi của thầy dạy luật mà đặt ra cho ông một câu hỏi. Câu hỏi của Chúa cũng có thể xem là một sự thử thầy dạy luật về sự ông hiểu biết luật pháp của Đức Chúa Trời.

Câu trả lời của thầy dạy luật cho thấy, ông thật có sự thông hiểu về luật pháp của Đức Chúa Trời. Vì toàn bộ luật pháp của Đức Chúa Trời đã được tóm gọn trong câu trả lời của ông, dựa trên Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5 và Lê-vi Ký 19:18.

“Ngươi sẽ yêu Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Thiên Chúa của ngươi, với hết thảy tấm lòng của ngươi, với hết thảy linh hồn của ngươi, và với hết thảy sức mạnh của ngươi.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5).

“Ngươi sẽ không trả thù, cũng sẽ không giữ lòng hận thù con cháu của dân sự mình. Nhưng ngươi sẽ yêu người lân cận của ngươi như chính mình. Ta, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.” (Lê-vi Ký 19:18).

Chúng ta thấy, mặc dù Phục Truyền Luật Lệ Ký 6:5 không chép là “với hết thảy tâm trí của ngươi”, nhưng trong câu trả lời của thầy dạy luật, ông đã thêm “hết tâm trí”. Đó là ông nói lên sự hiểu biết của ông về ý nghĩa của Lời Chúa chứ không phải ông trích đọc Lời Chúa. Về sau, chính Đức Chúa Jesus cũng đã phán lời tương tự (Mác 12:30).

“Hết lòng” là trọn vẹn sự cảm xúc, tức là tình cảm. Yêu Chúa hết lòng là yêu Chúa bằng trọn vẹn tình cảm, bao gồm lòng tôn kính, lòng tin cậy, và lòng vâng phục.

“Hết linh hồn” là trọn vẹn sự sống, đời sống, mục đích sống. Yêu Chúa hết linh hồn là yêu Chúa bằng trọn vẹn sự thực hữu của mình; là sống cho Chúa, sống vì Chúa. Sống cho Chúa là sống để phụng sự Chúa, làm những việc lành mà Ngài đã sắm sẵn cho con dân của Ngài. Sống vì Chúa là sống theo Lời Chúa để tôn cao danh Chúa.

“Hết sức” là trọn vẹn năng lực, bao gồm năng lực của thân thể xác thịt lẫn năng lực của tâm thần. Năng lực của xác thịt là sức mạnh vật lý. Năng lực của tâm thần là đức tin. Yêu Chúa hết sức là yêu Chúa bằng trọn vẹn đức tin về sự thực hữu của Chúa, về Lời Chúa là Thánh Kinh, và dùng trọn vẹn năng lực xác thịt trong khi phụng sự Ngài, qua các việc làm của thân thể xác thịt.

“Hết tâm trí” là trọn vẹn nhận thức, suy luận, và quyết định. Yêu Chúa hết tâm trí là yêu Chúa bằng trọn vẹn sự suy ngẫm về Chúa, về Lời Chúa để hiểu biết về Chúa ngày càng hơn, và để có thể cẩn thận làm theo Lời Chúa.

“Yêu người lân cận của ngươi như chính mình” là cư xử với bất cứ ai mà chúng ta gặp trong đời, như cách mà mình muốn được người khác cư xử đối với mình:

“Vậy, bất cứ điều gì mà các ngươi muốn người ta làm cho các ngươi thì các ngươi cũng hãy làm như vậy cho họ. Vì ấy là luật pháp và những lời tiên tri.” (Ma-thi-ơ 7:12).

Điều đó nói lên sự tôn trọng, sự sẵn sàng giúp đỡ, sự sẵn sàng tha thứ đối với mọi người.

“Người lân cận” của chúng ta là bất cứ ai mà chúng ta gặp được trong đời, như hàm ý trong ngụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân từ mà Đức Chúa Jesus kể trong các câu kế tiếp.

Lu-ca 10:28-29

28 Ngài đã bảo người: “Ngươi đã trả lời đúng. Hãy làm điều ấy, thì ngươi sẽ sống.”

29 Nhưng muốn xưng mình là công chính, người đã thưa với Đức Chúa Jesus: “Ai là người lân cận của tôi?”

Đức Chúa Jesus khen thầy dạy luật đã trả lời đúng và Ngài khuyên ông hãy làm như vậy thì sẽ sống.

“Sẽ sống” là sẽ có sự sống vĩnh cửu. Sự sống vĩnh cửu là sự nhận biết Đức Chúa Trời và vâng giữ các điều răn của Ngài.

“Và đây là sự sống vĩnh cửu, rằng, họ nhìn biết Ngài, Thiên Chúa chân thật duy nhất, cùng Jesus Christ, là Đấng Ngài đã sai đến.” (Giăng 17:3).

“Ngài đã bảo người: “Sao ngươi gọi Ta tốt lành? Không ai tốt lành, ngoại trừ một Đấng là Đức Chúa Trời. Nếu ngươi muốn vào trong sự sống, hãy giữ các điều răn.”” (Ma-thi-ơ 19:17).

Thầy dạy luật đã nêu lên câu hỏi “Ai là người lân cận của tôi?” với mục đích nhân cơ hội để tỏ ra rằng, ông là người công chính, vì ông đã cư xử tốt với những người lân cận, theo định nghĩa của Do-thái Giáo.

Theo sự giảng dạy của Do-thái Giáo thời bấy giờ thì chỉ có người I-sơ-ra-ên mới xứng đáng với Đức Chúa Trời, còn các dân ngoại là ô uế. Thậm chí những người I-sơ-ra-ên lai như những người Sa-ma-ri cũng bị những người I-sơ-ra-ên chính gốc xem khinh. Vì thế, danh từ “người lân cận” được dân I-sơ-ra-ên hiểu là những người I-sơ-ra-ên chính gốc.

Có lẽ thầy dạy luật muốn Đức Chúa Jesus xác nhận quan điểm về người lân cận của Do-thái Giáo vào thời ấy.

Đức Chúa Jesus đã kể một ngụ ngôn, rồi đặt câu hỏi cho thầy thông giáo để ông tự mình rút ra câu trả lời đúng cho câu hỏi, ai là người lân cận của ông.

Lu-ca 10:30-32

30 Đức Chúa Jesus đã đáp rằng: “Có một người kia đã từ Giê-ru-sa-lem đi xuống tới Giê-ri-cô, và đã rơi vào những kẻ cướp. Chúng đã lột hết áo quần của người và đã đánh cho bị thương, rồi đi, để người gần chết.

31 Tình cờ, có một thầy tế lễ đã đi xuống đường đó. Khi thấy người thì ông đã đi tránh qua phía bên kia.

32 Cũng vậy, một người Lê-vi đã đến nơi, lại gần, thấy, rồi đã đi tránh qua phía bên kia.

Giê-ri-cô là thành đầu tiên trong xứ Ca-na-an bị dân I-sơ-ra-ên đánh chiếm vào đầu năm 1406 TCN, khi họ tiến vào Đất Hứa, dưới sự lãnh đạo của Giô-suê và bởi phép lạ Đức Chúa Trời làm ra (Giô-suê 6). Giê-ri-cô nằm về phía bắc của Biển Chết, trong xứ Giu-đê, và thấp hơn mực nước biển khoảng 250 mét, khiến nó trở thành một trong những thành phố thấp nhất trên thế giới.

Giê-ri-cô cách Giê-ru-sa-lem khoảng 25 km theo đường chim bay, và cách ranh giới Sa-ma-ri chỉ vài km. Giê-ru-sa-lem ở vị trí cao hơn Giê-ri-cô khoảng 1 km. Từ Giê-ru-sa-lem đi xuống Giê-ri-cô là một chặng đường núi với đèo cao, dốc đứng, và nhiều khúc quanh nguy hiểm. Thời xưa, quân cướp thường mai phục các chỗ hiểm yếu để đánh cướp khách bộ hành và những nhóm thương buôn nhỏ, không đủ người hộ tống.

Đức Chúa Jesus đã không nói rõ nạn nhân là người Do-thái, nhưng theo bối cảnh các câu chuyện ngụ ngôn của Ngài thì các nhân vật được hiểu đều là người Do-thái, trừ trường hợp người Sa-ma-ri được nói đến trong ngụ ngôn này.

Nạn nhân bị quân cướp đánh bị thương có lẽ là vì đã chống cự chúng.

Thầy tế lễ nhìn thấy nạn nhân thì đã tránh sang bên kia đường. Có lẽ vì e sợ nạn nhân đã chết hoặc sẽ chết khi mình đến gần, tìm cách cứu giúp, thì mình sẽ bị ô uế tới bảy ngày, vì đụng vào xác chết (Dân Số Ký 19:11). Thầy tế lễ là người phụ trách sự thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ông đã không có lòng thương xót. Ông đã xem hình thức thờ phượng Chúa lớn hơn sự cứu giúp người cần được cứu giúp.

Tiếp theo thầy tế lễ, một người Lê-vi cũng đi qua trên đường đó. Người Lê-vi thấy nạn nhân thì đến gần, nhìn xem, rồi cũng tránh sang bên kia đường. Người Lê-vi là người giúp việc bảo vệ và quản lý Đền Thờ Thiên Chúa. Có lẽ người Lê-vi cũng có sự e ngại và cũng không có lòng thương xót như thầy tế lễ.

Dựa trên Lời Chúa, hành động của thầy tế lễ và người Lê-vi đều đã tỏ ra rằng, họ không yêu người lân cận như chính mình. Họ đều là người được biệt riêng cho sự phụng sự Thiên Chúa nhưng họ lại không có lòng thương xót. Họ đã không biết hay không nhớ rằng, chính Đức Chúa Trời đã phán truyền, Ngài “ưa sự thương xót không phải của lễ” (Ô-sê 6:6).

Lu-ca 10:33-35

33 Nhưng có một người Sa-ma-ri đi đường, đã đến gần người, nhìn thấy thì động lòng thương.

34 Ông đã đến gần, xức dầu và rượu, băng bó các vết thương của người, rồi đặt người trên con vật của mình, đem người đến quán trọ, mà săn sóc người.

35 Ngày hôm sau, ông đã lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán và nói: “Hãy săn sóc người. Nếu ngươi tốn hơn bao nhiêu hãy tính cho ta, khi ta quay lại, ta sẽ trả cho ngươi.”

Dân Sa-ma-ri là người I-sơ-ra-ên lai với các dân khác. Dân Sa-ma-ri bị dân I-sơ-ra-ên chính gốc xem khinh. Trong thực tế, dân Sa-ma-ri và dân I-sơ-ra-ên chính gốc thù ghét lẫn nhau. Tuy vậy, người Sa-ma-ri trong ngụ ngôn đã có lòng thương xót. Khi nhìn thấy nạn nhân, ông đã đến gần, động lòng thương xót. Ông đã dùng rượu để rửa vết thương, dùng dầu để xức, và băng bó cho nạn nhân. Rất có thể ông đang cưỡi lừa và ông đã đặt nạn nhân lên lưng lừa để đem người ấy đến quán trọ.

Tại quán trọ, người Sa-ma-ri đã tiếp tục chăm sóc cho nạn nhân. Hôm sau, ông phải tiếp tục lên đường nhưng đã đưa cho chủ quán hai đơ-ni-ê, nhờ chủ quán tiếp tục chăm sóc nạn nhân. Đơ-ni-ê là một đồng tiền bạc của La-mã. Vào thời ấy, một đơ-ni-ê tương đương với tiền công lao động bình thường một ngày. Ông lại sẵn sàng chi trả tiếp những tốn kém trong việc chăm sóc nạn nhân, khi ông quay trở lại.

Chúng ta thấy, người Sa-ma-ri đã đối xử với nạn nhân như cách mà ông muốn người khác đối xử với ông. Và đó chính là yêu người khác như chính mình.

Qua ngụ ngôn, Đức Chúa Jesus đã định nghĩa “người lân cận” của một người là bất cứ ai mà người ấy gặp được trong đời.

Lu-ca 10:36-37

36 Theo ngươi, ai trong ba người ấy đã là người lân cận của người đã rơi vào những kẻ cướp?”

37 Người đã thưa: “Người đã làm sự thương xót cho người ấy.” Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo người: “Hãy đi và ngươi hãy làm như vậy!”

Luật pháp của Đức Chúa Trời đòi hỏi một người phải yêu người lân cận như chính mình. Người Sa-ma-ri đã xem người bị cướp là người lân cận và ra tay cứu giúp. Vậy, người Sa-ma-ri đã làm theo luật pháp. Nhưng Đức Chúa Jesus lại hỏi thầy dạy luật rằng, ai là người lân cận của nạn nhân. Câu hỏi của Đức Chúa Jesus hàm ý, người nào yêu thương, cứu giúp chúng ta thì người ấy là người lân cận của chúng ta. Vậy, khi chúng ta yêu thương cứu giúp ai thì chúng ta là người lân cận của người được chúng ta yêu thương và cứu giúp.

Nói cách khác, chúng ta không tìm xem ai là người lân cận của mình mà chúng ta biến mình thành người lân cận của bất cứ ai, bằng cách yêu thương, cứu giúp họ. Khi chúng ta yêu thương, cứu giúp bất cứ ai thì chúng ta giữ trọn điều răn yêu người lân cận như chính mình.

Thầy dạy luật đã tự mình khẳng định, người làm sự thương xót cho nạn nhân chính là người lân cận của nạn nhân. Qua đó, ông có thể rút ra định nghĩa đúng của danh từ “người lân cận”.

“Hãy đi và ngươi hãy làm như vậy!” Có nghĩa là hãy sống đời sống của ngươi, biến mình thành người lân cận của mọi người, bằng cách yêu thương, cứu giúp mọi người, khi cần, không phân biệt chủng tộc hay bất cứ sự gì.

Lu-ca 10:38-39

38 Đã xảy ra, họ đang đi đường và Ngài đã vào trong một làng kia. Có người đàn bà kia, tên Ma-thê, đã đón Ngài vào trong nhà của mình.

39 Nàng đã có một em gái, gọi là Ma-ri, là người đang ngồi bên chân Chúa, nghe sự rao giảng của Ngài.

“Làng kia” được nhiều nhà giải kinh hiểu là làng Bê-tha-ni, một làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem khoảng 3 km. Ma-thê và Ma-ri trong phân đoạn này cũng được hiểu là hai em gái của La-xa-rơ. La-xa-rơ là người sau đó không bao lâu sẽ được Đức Chúa Jesus gọi sống lại, sau khi ông chết đã được bốn ngày.

Sau khi Đức Chúa Jesus vào trong nhà, có lẽ Ngài đã giảng dạy cho các môn đồ và đoàn dân đi theo Ngài. Ma-ri, là em của Ma-thê, đã chọn ngồi bên chân Chúa để nghe sự giảng dạy của Ngài, thay vì phụ giúp chị của mình trong sự tiếp đãi Chúa và các môn đồ.

Lu-ca 10:40-42

40 Ma-thê đã bận rộn nhiều về sự phục vụ, đã đến và thưa: “Lạy Chúa, Ngài không quan tâm em gái của tôi đã để tôi phục vụ một mình sao? Vậy, xin Ngài bảo nó để nó giúp tôi.”

41 Đức Chúa Jesus đã đáp lời, bảo nàng: “Hỡi Ma-thê! Ngươi lo lắng và bị bối rối về nhiều việc.

42 Nhưng có một việc là cần thiết. Ma-ri đã chọn phần tốt, là phần sẽ không bị cất đi khỏi người.”

Có lẽ trong khi Ma-thê đang bận rộn lo việc nấu ăn cho Chúa và các môn đồ, thấy Ma-ri không giúp mình mà lại ngồi nghe Chúa giảng dạy, nên bà đã đến, than phiền với Chúa và xin Ngài bảo em giúp mình.

Câu Ma-thê thưa với Chúa có phần hàm ý trách Chúa, rằng Ngài đã không quan tâm sự Ma-ri không giúp bà trong sự tiếp đãi Chúa và các môn đồ. Ma-thê kết luận Chúa không quan tâm vì Ngài chẳng sai bảo Ma-ri đi phụ giúp bà, trong khi Ma-ri đang ngồi bên chân Chúa mà bà thì rất bận rộn. Câu nói của Ma-thê rõ ràng là có ý buồn trách Chúa. Lẽ ra, Ma-thê nên ra dấu cho em theo mình ra khỏi chỗ đó để yêu cầu em giúp mình, thay vì nói lời với ý buồn trách Chúa như vậy.

Theo cái nhìn chung của thế gian thì dường như Ma-ri không biết điều, Ma-thê có ý bực tức, và Chúa thì không chú ý đến nhu cầu của Ma-thê.

Câu trả lời của Đức Chúa Jesus vừa xác nhận là Ngài biết Ma-thê bận rộn, vừa nói cho bà biết là những việc bà đang làm tuy nên làm nhưng không phải là cần thiết. Có lẽ Ma-thê muốn đãi Chúa và các môn đồ một bữa ăn thịnh soạn, nên phải tốn nhiều công sức để chuẩn bị. Đãi ăn cho khách là cần thiết nhưng đãi ăn thịnh soạn chỉ là việc nên làm, nếu có thể làm, nhưng không là cần thiết. Trong lúc ấy, việc cần thiết là đến bên Chúa để lắng nghe sự giảng dạy của Ngài.

Ma-ri có sự khao khát được nghe Chúa giảng dạy nên bà đã không còn quan tâm đến các việc khác, kể cả việc giúp người chị đang rất bận rộn của mình. Ma-ri đã chọn ngồi bên chân Chúa để được nghe và nhìn thấy Ngài, trong khi Ngài giảng dạy.

Sự chọn nghe Chúa giảng dạy cũng là sự chọn nhận lãnh tri thức thuộc linh từ Ngài, và đó chính là phần tốt mà không ai có thể lấy khỏi Ma-ri, một khi bà đã tiếp nhận vào trong thần trí của bà.

Ngày nay, có nhiều người bận rộn với những việc nên làm lẫn những việc không nên làm hơn là chọn đọc, nghe, và suy ngẫm Lời Chúa. Mỗi ngày, ngoài việc đọc Thánh Kinh và suy ngẫm, con dân Chúa cũng nên dành thời gian lắng nghe các bài giảng và các bài thánh ca. Nếu có thể, nên mở máy cho phát các bài nghe đọc Thánh Kinh, các bài giảng, và các bài thánh ca trong nhà. Cho dù người nghe không tập trung tâm trí cho toàn bài nhưng có khi một câu Thánh Kinh, một câu trong bài giảng, hoặc một câu trong bài thánh ca sẽ giúp ích rất nhiều cho người nghe. Ngoài ra, các tà linh cũng không muốn đến gần những nơi có sự đọc Lời Chúa, rao giảng Lời Chúa, hoặc tôn vinh Chúa.

Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
11/01/2025

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

Karaoke Thánh Ca: “Trong Tình Yêu của Chúa”
https://karaokethanhca.net/trong-tinh-yeu-cua-chua/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.

Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.