YouTube: https://youtu.be/m_BxAKgtUAI
Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL109 Ngụ Ngôn về Quan Án Không Công Chính,
Ngụ Ngôn về Người Pha-ri-si và Người Thu Thuế,
Hãy Để Những Trẻ Con Đến với Chúa
Lu-ca 18:1-17; Ma-thi-ơ 19:13-15; Mác 10:13-16
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
- SoundCloud: Bấm vào đây
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
Kho chứa MP3 các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Kho chứa pdf các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Lu-ca 18:1-17
1 Ngài đã phán với họ một ngụ ngôn về sự họ phải cầu nguyện luôn, chớ mỏi mệt.
2 Ngài phán: “Trong một thành kia, đã có một quan án kia không kính sợ Đức Chúa Trời và không tôn trọng ai.
3 Trong thành đó cũng đã có một người đàn bà góa. Bà đã đến với người, thưa rằng: “Xin xét lẽ công chính cho tôi về kẻ thù nghịch của tôi.”
4 Người đã chẳng muốn trong một thời gian. Nhưng sau đó, người đã tự nói: “Dù ta không kính sợ Đức Chúa Trời cũng không tôn trọng ai,
5 nhưng vì người đàn bà góa này đã cứ khuấy rối ta, ta sẽ xét lẽ công chính cho nó, để nó không cứ tiếp tục đến, quấy rầy ta.””
6 Chúa đã phán: “Các ngươi hãy nghe điều quan án không công chính nói!
7 Vậy, Đức Chúa Trời chẳng thi hành sự xét lẽ công chính cho những người được chọn của Ngài, là những người ngày đêm kêu xin Ngài, và khoan nhẫn với họ sao? {Khoan nhẫn = khoan dung và nhẫn nại; tha thứ và bền lòng chịu đựng.}
8 Ta bảo các ngươi rằng, trong sự vội vàng, Ngài sẽ thi hành sự xét lẽ công chính cho họ. Dù vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ tìm thấy đức tin trên đất chăng?”
9 Ngài cũng đã phán ngụ ngôn này về những kẻ trông cậy nơi chính mình rằng, mình là người công chính, và khinh dể những người khác:
10 “Có hai người đã lên đến Đền Thờ để cầu nguyện. Một là người Pha-ri-si và người kia là người thu thuế.
11 Người Pha-ri-si ấy đã đứng, cầu nguyện hướng về mình: “Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không giống như những người khác: tham lam, bất nghĩa, gian dâm; cũng không giống như người thu thuế này.
12 Tôi kiêng ăn hai bữa trong ngày Sa-bát. Tôi dâng một phần mười hết thảy bất cứ sự gì tôi thu nhập.”
13 Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, nhưng đấm trên ngực mình, thưa rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, một tội nhân!”
14 Ta bảo các ngươi, người này đã đi xuống, về tới nhà mình, được xưng công chính hơn người kia. Vì ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên.”
15 Người ta cũng đã đem những trẻ sơ sinh đến Ngài để Ngài sờ chạm chúng nó. Các môn đồ đã thấy thì trách họ.
16 Nhưng Đức Chúa Jesus đã gọi họ và phán: “Hãy để cho những trẻ con đến với Ta! Đừng ngăn cấm chúng nó! Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời là của những ai giống như chúng.
17 Thật! Ta bảo các ngươi. Bất cứ ai không nhận Vương Quốc của Đức Chúa Trời như một đứa trẻ thì sẽ không bao giờ vào đó.”
Ma-thi-ơ 19:13-15
13 Khi ấy, người ta đã đem những trẻ con đến Ngài, để Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Nhưng các môn đồ đã trách họ.
14 Đức Chúa Jesus đã phán: “Các ngươi hãy để yên những đứa trẻ! Đừng ngăn cấm chúng nó đến với Ta! Vì Vương Quốc Trời là của những ai giống như chúng.”
15 Ngài đã đặt tay trên chúng, rồi lìa khỏi đó.
Mác 10:13-16
13 Người ta đã đem những trẻ con đến Ngài, để Ngài sờ chạm chúng nó. Nhưng các môn đồ đã trách những người đem đến.
14 Đức Chúa Jesus đã thấy thì không vui. Ngài đã bảo họ: “Hãy để cho những trẻ con đến với Ta! Đừng ngăn cấm chúng nó! Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời là của những ai giống như chúng.
15 Thật! Ta bảo các ngươi. Ai chẳng nhận lấy Vương Quốc của Đức Chúa Trời như một đứa trẻ, thì sẽ không bao giờ vào đó.”
16 Ngài đã bồng chúng, đặt tay trên chúng, ban phước cho chúng.
Trong bài này, chúng ta học thêm hai ngụ ngôn của Đức Chúa Jesus và mệnh lệnh của Chúa về sự để cho những trẻ con đến với Ngài.
Lu-ca 18:1-3
1 Ngài đã phán với họ một ngụ ngôn về sự họ phải cầu nguyện luôn, chớ mỏi mệt.
2 Ngài phán: “Trong một thành kia, đã có một quan án kia không kính sợ Đức Chúa Trời và không tôn trọng ai.
3 Trong thành đó cũng đã có một người đàn bà góa. Bà đã đến với người, thưa rằng: “Xin xét lẽ công chính cho tôi về kẻ thù nghịch của tôi.”
Tiếp theo lời phán dạy các môn đồ về sự Ngài sẽ đến, đem Hội Thánh ra khỏi thế gian thì Đức Chúa Jesus đã phán dạy họ một ngụ ngôn về sự kiên trì trong khi cầu nguyện.
Đức Chúa Jesus biết rằng, cần có một khoảng thời gian để Hội Thánh được tăng trưởng, trước khi Ngài đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Trong suốt thời kỳ Hội Thánh, con dân Chúa phải chịu nhiều gian khổ và bất công. Đó vừa là sự thử thách đức tin của họ mà cũng là sự họ được dự phần trong sự thương khó của Đấng Christ. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời luôn là Đấng quan phòng họ. Ngài bảo vệ họ, chăm sóc họ, kỷ luật họ để họ ngày càng trở nên giống như Đấng Christ càng hơn. Vì thế, con dân Chúa cần kiên trì trong sự cầu nguyện để được Đức Chúa Trời ban cho họ những điều họ cầu xin phải lẽ.
Đức Chúa Jesus đã thuật cho các môn đồ của Ngài ngụ ngôn về một quan án không công chính. Quan án không công chính đã không thi hành bổn phận của mình, nhưng vì sự quấy rầy phải lẽ của một người đàn bà góa mà ông ta đã phải xét lẽ công chính cho bà.
Chúng ta có thể hiểu rằng, quan án là người giữ nhiệm vụ xét xử theo lẽ phải và luật pháp cho dân chúng, không được tư vị vì bất cứ lý do gì. Một người có thể tư vị vì thành kiến: ghét người này, thích người kia. Một người có thể tư vị vì muốn bao che hoặc thu lợi cho người thân. Một người có thể tư vị vì bị cấp trên ra lệnh. Một người cũng có thể tư vị vì ăn của hối lộ.
Vị quan án không công chính trong ngụ ngôn có lẽ là người ăn hối lộ trong việc xử án. Bản tính không kính sợ Đức Chúa Trời cũng không tôn trọng ai là bản tính của người chỉ làm việc vì tiền. Vì thế, cho dù người thưa kiện có lý lẽ chính đáng mà muốn được xét xử thì phải hối lộ cho quan án.
Lu-ca 18:4-5
4 Người đã chẳng muốn trong một thời gian. Nhưng sau đó, người đã tự nói: “Dù ta không kính sợ Đức Chúa Trời cũng không tôn trọng ai,
5 nhưng vì người đàn bà góa này đã cứ khuấy rối ta, ta sẽ xét lẽ công chính cho nó, để nó không cứ tiếp tục đến, quấy rầy ta.””
Chúng ta có thể hiểu rằng, rất có thể người đàn bà góa có lý lẽ chính đáng nhưng không có tiền hối lộ, nên sự thưa kiện của bà đã không được quan án xét xử. Dù vậy, bà vẫn kiên trì kêu cầu. Vì bà có lý lẽ chính đáng nên quan án không thể bác bỏ sự kiện cáo của bà. Sự kiên trì kêu cầu của bà trở thành sự phiền toái cho quan án. Để không còn bị người đàn bà góa làm phiền, quan án buộc lòng phải xét lẽ công chính cho bà.
Chúng ta có thể hình tưởng ra sự ngày nào người đàn bà góa cũng đến trước cửa công đường, kêu cầu quan án xét lẽ công chính cho mình. Có lẽ không phải chỉ sự kêu cầu mỗi ngày của người đàn bà góa khuấy rối quan án mà sự đàm tiếu của dân chúng cũng chính là một hình thức khuấy rối khác.
Sự khuấy rối không phải chỉ là lời kêu xin hàng ngày của người đàn bà góa và lời đàm tiếu của dân chúng, mà còn là sự cáo trách, cho dù có yếu ớt, trong lương tâm. Dù quan án tự xưng nhận mình là người “không kính sợ Đức Chúa Trời cũng không tôn trọng ai” nhưng ông không thể dập tắt tiếng cáo trách trong lương tâm. Có lẽ, đó chính là sự quấy rầy ông nhiều nhất.
Lu-ca 18:6-7
6 Chúa đã phán: “Các ngươi hãy nghe điều quan án không công chính nói!
7 Vậy, Đức Chúa Trời chẳng thi hành sự xét lẽ công chính cho những người được chọn của Ngài, là những người ngày đêm kêu xin Ngài, và khoan nhẫn với họ sao? {Khoan nhẫn = khoan dung và nhẫn nại; tha thứ và bền lòng chịu đựng.}
Đức Chúa Jesus khuyên các môn đồ của Ngài nghe điều quan án không công chính nói để hiểu rằng, dù là một quan án không công chính, nhưng vì sự phiền toái mà quan án đã đáp ứng lời kêu xin kiên trì của người đàn bà góa. Thế thì với Đức Chúa Trời là Đấng Công Chính, Ngài sẽ sẵn sàng đáp lời kêu xin của con dân Chúa càng hơn.
Con dân Chúa là những người đã được chính Đức Chúa Trời chọn làm con dân của Ngài, từ trước khi sáng thế:
“Tôn vinh Đức Chúa Trời, Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, Đấng đã ban phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng trong các nơi trên trời. Đến nỗi, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng ấy từ trước khi lập nền thế gian, để chúng ta được nên thánh và không chỗ trách được, trước Ngài, trong tình yêu.” (Ê-phê-sô 1:3-4).
Vì thế, chắc chắn họ mãi được Ngài bảo vệ, chăm sóc, ban cho đủ các nhu cầu và đủ mọi ơn phước.
Trong những lời kêu cầu của con dân Chúa, ngoài những lời kêu cầu được giải cứu khỏi nghịch cảnh, được tiếp trợ mọi nhu cầu, được ban cho các thứ ơn, còn có lời kêu cầu về sự tha thứ, sau những lần lỡ phạm tội.
Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng khoan nhẫn với con dân của Ngài và Ngài sốt sắng trong sự đáp lời cầu xin của họ. Thi Thiên 18 là một bài ca tuyệt vời về sự Đức Chúa Trời đáp trả lời kêu cầu của con dân Ngài. Câu 6 là một câu đáng nhớ.
“Trong cơn gian truân của tôi, tôi đã cầu khẩn Đấng Tự Hữu Hằng Hữu và kêu cứu cùng Thiên Chúa của tôi. Từ Đền Thờ của Ngài, Ngài đã nghe tiếng của tôi. Tiếng kêu khóc của tôi trước Ngài đã đến tai của Ngài.” (Thi Thiên 18:6).
Sự con dân Chúa ngày đêm kêu cầu Đức Chúa Trời không chỉ là kêu cầu cho bản thân mà còn là cho mọi người, theo lời Chúa dạy, trong I Ti-mô-thê 2:1-2.
Đức Chúa Trời sẽ nghe và đáp lại mỗi lời cầu xin đẹp ý Ngài. Mặc dù có những khi sự đáp lời của Ngài không theo thời điểm hay cách thức chúng ta mong đợi, nhưng theo thánh ý của Ngài. Vì đó luôn là điều tốt nhất cho chúng ta.
Lu-ca 18:8
8 Ta bảo các ngươi rằng, trong sự vội vàng, Ngài sẽ thi hành sự xét lẽ công chính cho họ. Dù vậy, khi Con Người đến, Ngài sẽ tìm thấy đức tin trên đất chăng?”
Khi con dân Chúa kêu cầu Đức Chúa Trời vì bị thế gian đối xử bất công, Ngài sẽ vội vàng “thi hành sự xét lẽ công chính cho họ”. Tuy nhiên, sự ấy thường khi không được nhận biết bởi loài người. Bởi sự phán xét lập tức được thi hành nhưng án phạt thì sẽ dồn lại để thi hành trong ngày phán xét chung cuộc (Khải Huyền 20:11-15).
Trong lịch sử của Hội Thánh, có biết bao nhiêu con dân Chúa đã bị bách hại đức tin, kêu cầu lên Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn bị giết hại. Sự Đức Chúa Trời vội vàng “thi hành sự xét lẽ công chính” cho con dân của Ngài nhiều khi không bao gồm sự giải cứu họ ra khỏi nghịch cảnh ngay lập tức. Mặc dù vẫn có những lúc Ngài thi hành sự giải cứu ngay lập tức, như đã được ghi lại nhiều lần trong Thánh Kinh. Vì mọi nghịch cảnh được Ngài cho phép xảy ra là để thử thách và rèn luyện họ, đem lại ích lợi cho họ, như lời đã chép trong Rô-ma 8:28.
Con dân Chúa cần vững tin rằng, Đức Chúa Trời luôn vội vàng “thi hành sự xét lẽ công chính” cho họ.
Phần sau của câu 8 là lời Đức Chúa Jesus tiên tri về sự không có bao nhiêu người thật sự có đức tin, vào thời điểm Ngài đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian.
Chúng ta đã biết, Đức Chúa Jesus sẽ đến trước Kỳ Tận Thế để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Đó là lúc loài người vẫn ăn uống, cưới gả, làm việc bình thường, như trong những ngày trước Cơn Lụt Lớn hủy diệt toàn thế gian, hoặc trước khi mưa lửa hủy diệt Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Tiếc thay, theo lời tiên tri của Chúa, sẽ không có bao nhiêu người đang sống vào lúc Chúa đến mà có đức tin. Có lẽ phần lớn những người được Đức Chúa Jesus đem ra khỏi thế gian vào lúc ấy là những thánh đồ đã qua đời, được sống lại.
Sau Kỳ Tận Thế kéo dài suốt bảy năm, thì Đức Chúa Jesus sẽ tái lâm trên đất. Lúc đó, ít nhất một nửa dân số thế giới đã bị giết bởi đủ loại thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh trong Kỳ Tận Thế. Mọi núi và mọi hải đảo không còn, mọi thành lớn trong thế gian đều đã sụp đổ. Nhưng lúc đó cũng có rất nhiều người tin nhận Tin Lành, không quy phục AntiChrist, không nhận dấu ấn của hắn. Họ sẽ là những công dân của Vương Quốc Trời được thể hiện trên đất, trong suốt một ngàn năm sau đó.
Lời tiên tri này của Đức Chúa Jesus đáng cho chúng ta ghi nhớ và xét mình, xem mình đã thật sự có đức tin không? Người có đức tin nơi Chúa là người vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa và tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Người ấy sống theo Lời Chúa, chiếu sáng tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Thiên Chúa, qua nếp sống của mình. Người ấy yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự, yêu người khác như chính mình, và yêu anh chị em cùng đức tin, như Chúa yêu mình.
Lu-ca 18:9-10
9 Ngài cũng đã phán ngụ ngôn này về những kẻ trông cậy nơi chính mình rằng, mình là người công chính, và khinh dể những người khác:
10 “Có hai người đã lên đến Đền Thờ để cầu nguyện. Một là người Pha-ri-si và người kia là người thu thuế.
Tiếp theo, Đức Chúa Jesus đã phán dạy các môn đồ của Ngài qua một ngụ ngôn khác, về sự xưng mình là công chính và xem thường những người khác. Trong ngụ ngôn, Ngài nêu lên hai người đại diện cho hai giai cấp nổi bật và đối nghịch nhau vào thời bấy giờ, trong xã hội Do-thái. Một người là người Pha-ri-si, tiêu biểu cho những người tự xưng mình là công chính, tận hiến đời sống để phụng sự Chúa. Một người là người thu thuế, làm công việc thu thuế cho chính quyền La-mã, tiêu biểu cho những người bị dân Do-thái ghét và coi khinh nhất. Thứ nhất, những người thu thuế thường gian lận trong việc thu thuế để bỏ túi riêng. Thứ nhì, họ lạm dụng thẩm quyền của chính quyền La-mã để bóc lột dân sự của họ. Dân Do-thái vào thời ấy xem những người thu thuế là tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội.
Người Pha-ri-si và người thu thuế cùng là con cháu của Áp-ra-ham, có giao ước với Đức Chúa Trời. Họ cùng thờ phượng Đức Chúa Trời nên họ lên Đền Thờ để cầu nguyện.
Lu-ca 18:11-12
11 Người Pha-ri-si ấy đã đứng, cầu nguyện hướng về mình: “Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài, vì tôi không giống như những người khác: tham lam, bất nghĩa, gian dâm; cũng không giống như người thu thuế này.
12 Tôi kiêng ăn hai bữa trong ngày Sa-bát. Tôi dâng một phần mười hết thảy bất cứ sự gì tôi thu nhập.”
Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhưng lời cầu nguyện lại “hướng về mình”, hàm ý, nói những lời khoe tốt về mình, tự khen mình. Nói cách khác, người Pha-ri-si đã mượn danh Chúa để khoe khoang bản thân với Chúa. Cùng lúc, hạ nhục người anh em cùng dòng dõi Áp-ra-ham trước Chúa.
Phần đầu của câu 12 là một câu gợi ra nhiều tranh cãi về dịch thuật. Nếu dịch sát nguyên ngữ Thánh Kinh của tiếng Hy-lạp thì đúng là: “Tôi kiêng ăn hai bữa trong ngày Sa-bát”. Một số bản dịch tiếng Anh đã dịch tương tự như vậy.
1. Julia Smith Translation: “I fast twice of the Sabbath; I pay tithes of all I possess.”
2. Literal Translation of the Holy Bible (LITV): “I fast twice on the sabbath; I tithe all things, as many as I get.”
3. Modern King James Version (MKJV): “I fast twice on the Sabbath; I give tithes of all that I possess.”
4. Worrell New Testament: “I fast twice on the Sabbath; I give a tenth of all that I acquire.”
Các bản dịch này phản ánh cách hiểu rằng, người Pha-ri-si trong Lu-ca 18:12 đang nói về việc kiêng ăn hai lần trong ngày Sa-bát, chứ không phải hai lần mỗi tuần.
Không biết từ bao giờ, các nhà dịch Thánh Kinh và giải kinh cho rằng, từ ngữ “σάββατον” (sabbaton – G4521) /sa-ba-ton/ vừa mang nghĩa “Sa-bát” vừa mang nghĩa “tuần lễ”. Nhưng thực tế vào thời ấy, tiếng Hy-lạp đã có từ ngữ dùng để chỉ tuần lễ là “ἑβδομάς” /ép-đô-mát/. Từ ngữ này được dùng trong Bản Dịch Bảy Mươi [1], điển hình là trong Đa-ni-ên 10:2. Con dân Chúa vào thời ấy đọc và học Thánh Kinh từ Bản Dịch Bảy Mươi. Vì thế, chắc chắn Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, và Giăng đều quen thuộc với danh từ chỉ tuần lễ trong tiếng Hy-lạp. Nếu họ muốn nói về tuần lễ thì họ sẽ không dùng danh từ “σάββατον” /sa-ba-ton/. Trong Tân Ước không thấy từ “ἑβδομάς” /ép-đô-mát/, vì không có chỗ nào nói đến tuần lễ.
Tất cả các chỗ dùng danh từ “σάββατον” /sa-ba-ton/ trong Tân Ước nếu dịch đúng thì phải được dịch là Sa-bát.
Các bộ từ điển Hy-lạp hiện nay đều bị ảnh hưởng cách phiên dịch Thánh Kinh trước đó mà cho rằng, “σάββατον” /sa-ba-ton/ vừa có nghĩa là Sa-bát, vừa có nghĩa là tuần lễ. Nhưng trong văn chương Hy-lạp vào thời Thánh Kinh Tân Ước được viết thì không dùng “σάββατον” /sa-ba-ton/ để chỉ tuần lễ.
Mặc dù người Do-thái không kiêng ăn trong ngày Sa-bát vì là ngày nghỉ ngơi, vui mừng, chung vui ăn uống. Nhưng người Pha-ri-si cố ý kiêng ăn, không ăn hai bữa trong ngày Sa-bát, để tỏ ra mình vô cùng tôn kính Chúa, dành trọn thời gian trong ngày Sa-bát để tương giao với Chúa, hơn là ăn uống, vui chơi.
Trái với truyền thống Do-thái xem ngày Sa-bát là dịp vui mừng, ăn uống, người Pha-ri-si cố ý kiêng ăn để phô diễn lòng sùng kính vượt chuẩn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tính khoe khoang của người ấy.
Trong truyền thống Do-thái Giáo chính thống (Mishnah, Talmud, các bản văn Rabbinic), ngày Sa-bát là ngày vui mừng, ăn uống là một phần của việc giữ Sa-bát. Trong ngày Sa-bát phải ăn ba bữa ăn. Người Pha-ri-si trong ngụ ngôn đã chọn chỉ ăn một bữa. Có thể người ấy kiêng ăn từ sáng đến chiều và chỉ ăn một bữa ăn chính vào buổi chiều.
Về mặt ngữ pháp, Lu-ca 18:12a chỉ có thể hiểu là: “Tôi kiêng ăn hai bữa trong ngày Sa-bát”. Không thể hiểu là “Tôi kiêng ăn hai lần mỗi tuần”.
Trong câu 12, ngoài việc khoe mình về sự kiêng ăn hai bữa trong ngày Sa-bát, người Pha-ri-si còn khoe rằng: “Tôi dâng một phần mười hết thảy bất cứ sự gì tôi thu nhập”. Nhưng chính Đức Chúa Jesus nói về sự dâng một phần mười của những người Pha-ri-si như sau:
“Khốn cho các ngươi, những thầy thông giáo và những người Pha-ri-si, là những kẻ giả hình! Vì các ngươi nộp một phần mười bạc hà, hồi hương, và rau cần, mà bỏ điều hệ trọng hơn hết trong luật pháp, là công lý, lòng thương xót, và sự trung tín. Đó là những điều các ngươi phải làm, mà cũng không nên bỏ sót những điều kia.” (Ma-thi-ơ 23:23).
Một người dù có sốt sắng dâng hiến lên Chúa bao nhiêu mà không tôn trọng công lý, không có lòng thương xót, không trung tín thì cũng chỉ là vô ích. Vì Đức Chúa Trời “ưa sự thương xót không phải của lễ” (Ô-sê 6:6). Sự dâng hiến chỉ có ý nghĩa khi đi đôi với một đời sống công chính và yêu thương.
Lu-ca 18:13
13 Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, nhưng đấm trên ngực mình, thưa rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, một tội nhân!”
Vào thời của Đức Chúa Jesus, khi người Do-thái lên Đền Thờ cầu nguyện, họ không được vào tất cả các khu vực trong Đền Thờ. Cấu trúc của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào thời đó (thường gọi là Đền Thờ Thứ Hai) bao gồm nhiều khu vực, có sự phân chia nghiêm ngặt theo giới tính, quốc tịch, và tình trạng tôn giáo. Những người Do-thái nam khi cầu nguyện sẽ đứng ở khu vực được gọi là “Hành Lang của Người I-sơ-ra-ên” (Court of Israelites).
Các khu vực chính trong Đền Thờ từ ngoài vào trong là:
1. Hành Lang của Các Dân Ngoại (Court of the Gentiles), nơi những người không phải dân Do-thái được phép vào.
2. Hành Lang của Phụ Nữ (Court of Women), nơi những người nữ Do-thái được vào. Những người nam Do-thái cũng được vào trong hành lang này.
3. Hành Lang của Người I-sơ-ra-ên (Court of Israelites), nơi chỉ dành cho nam giới Do-thái. Đây là nơi họ thường đứng cầu nguyện.
4. Hành Lang của Các Thầy Tế Lễ (Court of the Priests), nơi các thầy tế lễ hành lễ.
5. Nơi Thánh và Nơi Rất Thánh (The Holy Place & The Holy of Holies), hai nơi này chỉ dành riêng cho các thầy tế lễ. Chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm được mỗi năm một lần vào Nơi Rất Thánh.
Có lẽ người Pha-ri-si đã hãnh diện đứng giữa Hành Lang của Người I-sơ-ra-ên, trong khi cầu nguyện. Có thể ông đã đứng gần chỗ bàn thờ dâng tế lễ, nơi những người có lòng tin kính thường cầu nguyện công khai.
Theo quy định của Do-thái Giáo, người thu thuế là người Do-thái nhưng bị khinh bỉ vì làm việc cho La-mã. Vì vậy, dù là người Do-thái, ông chỉ dám đứng xa xa, có thể là ở Hành Lang của Phụ Nữ hoặc đứng gần với Hành Lang của Người I-sơ-ra-ên, tùy theo mức độ sợ hãi hoặc cảm thấy không xứng đáng.
Thái độ “không dám ngước mắt lên trời” thể hiện lòng mặc cảm phạm tội. Hành động “đấm trên ngực mình” thể hiện sự ăn năn chân thành. Lời cầu xin “Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, một tội nhân” là một lời cầu xin tuyệt vời, đúng theo hoàn cảnh của ông và đúng theo ý Chúa.
Người thu thuế đã hết sức khiêm nhường, nhận thức rõ thân phận của mình, và chỉ kêu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời.
Lu-ca 18:14
14 Ta bảo các ngươi, người này đã đi xuống, về tới nhà mình, được xưng công chính hơn người kia. Vì ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên.”
Vì Đền Thờ tại Giê-ru-sa-lem và ngay cả Thành Giê-ru-sa-lem đều nằm trên núi, nên dân I-sơ-ra-ên dùng cách nói “đi lên” để nói đến sự đi đến Đền Thờ hoặc Thành Giê-ru-sa-lem. Và dùng cách nói “đi xuống” để nói đến sự rời khỏi Đền Thờ để về nhà hoặc rời khỏi Thành Giê-ru-sa-lem để đi đến nơi khác.
Người thu thuế “được xưng công chính” có nghĩa là người ấy được Đức Chúa Trời tha tội và chấp nhận, nhờ lòng khiêm nhường. Còn người Pha-ri-si thì không được tha tội, vì đã kiêu ngạo, không cầu xin lòng thương xót của Đức Chúa Trời.
“Ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống” có nghĩa là ai khoe khoang, kiêu ngạo thì sẽ bị Đức Chúa Trời đánh hạ.
“Ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên” có nghĩa là ai khiêm nhường, hạ mình thì sẽ được Đức Chúa Trời làm cho được tôn cao.
Lời Chúa dạy rõ:
“Nhưng Ngài lại ban ân điển càng hơn. Chính vì vậy mà Ngài phán rằng: Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ân điển cho người khiêm nhường.” (Gia-cơ 4:6).
“Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhấc các anh chị em lên!” (Gia-cơ 4:10).
Chính Đức Chúa Jesus kêu gọi những ai đến với Ngài thì hãy học theo lòng nhu mì và khiêm nhường của Ngài (Ma-thi-ơ 11:29).
Lu-ca 18:15
15 Người ta cũng đã đem những trẻ sơ sinh đến Ngài để Ngài sờ chạm chúng nó. Các môn đồ đã thấy thì trách họ.
Ma-thi-ơ 19:13
13 Khi ấy, người ta đã đem những trẻ con đến Ngài, để Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Nhưng các môn đồ đã trách họ.
Mác 10:13
13 Người ta đã đem những trẻ con đến Ngài, để Ngài sờ chạm chúng nó. Nhưng các môn đồ đã trách những người đem đến.
Ma-thi-ơ 19:13-15 và Mác 10:13-16 ghi lại cùng sự việc được Lu-ca ghi lại trong Lu-ca 18:15-17. Mỗi người nhấn mạnh một số chi tiết mà người khác không ghi lại.
Lu-ca nhấn mạnh rằng, những trẻ con được dân chúng mang đến gặp Chúa là những trẻ sơ sinh. Còn Ma-thi-ơ và Mác thì dùng danh từ “những trẻ con”, là một danh từ bao gồm từ trẻ sơ sinh cho đến trẻ con dưới 20 tuổi (theo tiêu chuẩn của Thánh Kinh).
Lu-ca và Mác thì nói mục đích của những người mang trẻ con đến là để chúng được Đức Chúa Jesus sờ chạm vào chúng. Trong khi Ma-thi-ơ thì nói rõ “để Ngài đặt tay trên chúng và cầu nguyện”. Mục đích của sự được Chúa sờ chạm là để được Ngài đặt tay lên người và ban phước. Sự cầu nguyện được nói đến ở đây là sự cầu xin Đức Chúa Trời ban phước. Nhưng cũng không ngoại trừ niềm tin của dân chúng vào lúc ấy là sự đặt tay của Đức Chúa Jesus trên con em của họ có thể chữa lành mọi tật bệnh cho chúng, ban cho chúng có sức khỏe tốt, và ngăn cản không cho tà linh khuấy phá chúng.
Khi các môn đồ của Chúa thấy dân chúng đem trẻ con đến với Chúa, thậm chí là những trẻ sơ sinh, thì họ sợ Chúa bị phiền, nên đã quở trách những người làm như vậy.
Lu-ca 18:16
16 Nhưng Đức Chúa Jesus đã gọi họ và phán: “Hãy để cho những trẻ con đến với Ta! Đừng ngăn cấm chúng nó! Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời là của những ai giống như chúng.
Ma-thi-ơ 19:14
14 Đức Chúa Jesus đã phán: “Các ngươi hãy để yên những đứa trẻ! Đừng ngăn cấm chúng nó đến với Ta! Vì Vương Quốc Trời là của những ai giống như chúng.”
Mác 10:14
14 Đức Chúa Jesus đã thấy thì không vui. Ngài đã bảo họ: “Hãy để cho những trẻ con đến với Ta! Đừng ngăn cấm chúng nó! Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời là của những ai giống như chúng.
Sự ghi chép của Mác có thêm chi tiết “Đức Chúa Jesus đã thấy thì không vui”. Rất có thể lúc bấy giờ, Đức Chúa Jesus đang bận rộn với một số trẻ con mà bên ngoài dân chúng vẫn tiếp tục đưa trẻ con đến, nên các môn đồ đã đi ra, ngăn cản và quở trách.
Đức Chúa Jesus nhìn thấy hành động của các môn đồ thì Ngài không vui. Vì các môn đồ không đồng cảm với lòng tin và nỗi khao khát của dân chúng. Các môn đồ cũng không biết trẻ con vô cùng có giá trị trước Đức Chúa Trời. Vì chúng chưa có ý thức phạm tội, chưa chọn phạm tội để chống nghịch Đức Chúa Trời. Chúng đáng được Đức Chúa Jesus tiếp nhận và ban phước. Vì thế, Đức Chúa Jesus đã gọi các môn đồ và bảo họ, hãy để cho những trẻ con đến với Ngài, đừng ngăn cấm chúng.
Đức Chúa Jesus còn phán thêm một lẽ thật mà có lẽ các môn đồ không ngờ: “Vì Vương Quốc của Đức Chúa Trời là của những ai giống như chúng”.
Chúng ta cần ghi nhớ là Đức Chúa Jesus đang phán về những trẻ con sơ sinh đang được dân chúng mang đến. Chúng hoàn toàn chưa có sự hiểu biết đủ để phân biệt thiện và ác (Phục Truyền Luật Lệ Ký 1:39). Chúng có các đặc tính như sau:
1. Đức tin đơn sơ và tin cậy tuyệt đối. Trẻ con tin hoàn toàn vào cha mẹ mà không nghi ngờ. Chúa mong muốn chúng ta có đức tin đơn thuần, không phức tạp bởi các lý luận. Đó là lý do mà Chúa bảo các môn đồ hãy đổi lại và trở nên như đứa trẻ để được vào trong Vương Quốc Trời (Ma-thi-ơ 18:3).
2. Lòng khiêm nhường và không kiêu ngạo. Trẻ con không tự cao, tự đại, không cạnh tranh về địa vị, không có sự kiêu ngạo khiến cho bị ngăn cách khỏi Đức Chúa Trời. Vì thế, Chúa bảo các môn đồ hãy khiêm nhường như trẻ con để sẽ là lớn trong Vương Quốc Trời (Ma-thi-ơ 18:4).
3. Sự phụ thuộc hoàn toàn. Trẻ con biết mình cần được chăm sóc và bảo vệ. Chúng ta cần nhận ra sự phụ thuộc vào Đức Chúa Trời trong mọi việc. Không tự lực, tự cường theo cách của thế gian.
4. Lòng trong sạch và thành thật. Trẻ con thường thẳng thắn, không giả dối, không có những toan tính phức tạp hay động cơ xấu.
5. Sự sẵn sàng tiếp nhận. Trẻ con dễ dàng nhận lãnh những điều được dạy. Sẵn sàng tin nhận Tin Lành mà không có những định kiến của người lớn, không bị các lý thuyết phức tạp làm cản trở.
6. Tinh thần tha thứ nhanh chóng. Trẻ con dễ dàng tha thứ và quên đi những tổn thương, không giữ lòng hận thù lâu dài.
7. Sự vui mừng đơn giản. Trẻ con có thể vui mừng với những điều nhỏ bé, biết tìm thấy niềm vui trong sự đơn giản của đời sống thuộc thể lẫn thuộc linh.
Chúa không kêu gọi chúng ta trở nên “trẻ con” về mặt trí tuệ (I Cô-rinh-tô 14:20), mà về thái độ tâm linh. Đó là có đức tin đơn sơ, lòng khiêm nhường, và biết phụ thuộc hoàn toàn vào Đức Chúa Trời. Vương Quốc Trời đòi hỏi chúng ta phải bỏ đi những rào cản của sự kiêu ngạo, của định kiến, của lý luận phức tạp để đến với Đức Chúa Trời cách đơn sơ như trẻ thơ.
Lu-ca 18:17
17 Thật! Ta bảo các ngươi. Bất cứ ai không nhận Vương Quốc của Đức Chúa Trời như một đứa trẻ thì sẽ không bao giờ vào đó.”
Ma-thi-ơ 19:15
15 Ngài đã đặt tay trên chúng, rồi lìa khỏi đó.
Mác 10:15-16
15 Thật! Ta bảo các ngươi. Ai chẳng nhận lấy Vương Quốc của Đức Chúa Trời như một đứa trẻ, thì sẽ không bao giờ vào đó.”
16 Ngài đã bồng chúng, đặt tay trên chúng, ban phước cho chúng.
“Nhận Vương Quốc của Đức Chúa Trời như một đứa trẻ” có nghĩa là đơn sơ tin nhận mọi lời phán dạy của Đức Chúa Jesus. Khiêm nhường vì hiểu rằng, được vào Vương Quốc Trời là sự ban cho của Đức Chúa Trời, không phải vì năng lực của bản thân. Phó thác hoàn toàn đời sống trong sự quan phòng và sự thương xót của Đức Chúa Trời.
Người không vào được Vương Quốc Trời là người không đơn sơ tin nhận mọi lời phán dạy của Đức Chúa Jesus. Gắng sức làm những việc công đức để được kể là xứng đáng.
Ma-thi-ơ cho biết, sau khi đặt tay trên những trẻ con thì Đức Chúa Jesus đã rời khỏi nơi đó.
Mác ghi một cách chi tiết: “Ngài đã bồng chúng, đặt tay trên chúng, ban phước cho chúng”. Sự Đức Chúa Jesus bồng những trẻ con giúp chúng ta hiểu vì sao Lu-ca chọn dùng danh từ “những trẻ sơ sinh”.
Đức Chúa Jesus đã đặt tay trên những trẻ con để ban phước cho chúng. Sự đặt tay của Chúa thể hiện sự Ngài tiếp nhận chúng. Sự ban phước cho chúng đáp ứng lòng mong đợi của những phụ huynh, đồng thời cũng là sự ban cho tuyệt vời của Ngài cho những đứa trẻ ấy. Chắc chắn sự ban phước của Đức Chúa Jesus trên những trẻ con vào ngày hôm ấy đã đem lại cho chúng nhiều phước hạnh, trong suốt cuộc đời của chúng.
Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.
Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
07/06/2025
Ghi Chú
Kính mời quý ông bà, anh chị em tham dự buổi nhóm hiệp trên mạng với chúng tôi vào mỗi Thứ Bảy, lúc 8:00 giờ sáng, ngày và giờ theo Việt Nam, qua Phòng Nhóm “Giang Thanh Kinh” của PalTalk. Khoảng mười phút trước giờ nhóm, quý ông bà, anh chị em có thể bấm vào: https://invite.paltalk.net/20T9JFY9eTb để vào phòng.
Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.
[1] https://thewordtoyou.net/dictionary/78-ban-dich-70
Karaoke Thánh Ca: “Con Tìm đến Ngài”:
https://karaokethanhca.net/con-tim-den-ngai/
Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.
Các chữ nằm trong hai dấu [ và ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt. Các chữ nằm trong hai dấu { và } là chú thích của người dịch, không có trong nguyên văn của Thánh Kinh. Các chữ nằm trong hai dấu ( và ) là chú thích của người viết Thánh Kinh.
Lời Giới Thiệu về Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012 và Bản Dịch Ngôi Lời:
https://thanhkinhvietngu.net/loi-gioi-thieu-ve-thanh-kinh-viet-ngu-ban-dich-ngoi-loi/