Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL077 Men của Những Người Pha-ri-si và của Những Người Sa-đu-sê

113 views

YouTube: https://youtu.be/HVleVtgCHNk

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL077 Men của Những Người Pha-ri-si
và của Những Người Sa-đu-sê
Đức Chúa Jesus Chữa Lành Người Mù tại Bết-sai-đa
Ma-thi-ơ 16:1-12; Mác 8:11-26

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Ma-thi-ơ 16:1-12

1 Những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê đã đến, thử Ngài, muốn Ngài tỏ ra cho họ một dấu lạ từ trời.

2 Nhưng Ngài đã trả lời, phán với họ: “Vào buổi tối, các ngươi nói, thời tiết tốt, vì trời đỏ.

3 Còn sáng sớm thì nói, hôm nay có mưa giông, vì trời đỏ và nhiều mây. Hỡi những kẻ giả hình! Các ngươi thật có thể phân biệt sắc trời mà các ngươi không thể phân biệt những dấu lạ của các thời kỳ sao?

4 Một thế hệ hung ác và gian dâm hỏi xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào ban cho nó, ngoài dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.” Rồi, Ngài bỏ họ mà đi.

5 Khi các môn đồ của Ngài đã đi đến bờ bên kia, họ đã quên đem theo bánh.

6 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Hãy coi chừng và hãy giữ mình về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê!”

7 Họ đã bàn luận cùng nhau rằng: “Vì chúng ta đã không đem theo bánh.”

8 Đức Chúa Jesus đã biết thì đã phán với họ: “Hỡi những kẻ ít đức tin, sao các ngươi bàn luận cùng nhau, vì các ngươi đã không đem theo bánh?

9 Các ngươi chưa hiểu, cũng không nhớ năm cái bánh cho năm ngàn người, và bao nhiêu giỏ các ngươi đã nhặt?

10 Lại không nhớ bảy cái bánh cho bốn ngàn người, và bao nhiêu giỏ các ngươi đã nhặt?

11 Sao các ngươi chẳng hiểu rằng, Ta đã không phán về bánh với các ngươi? Các ngươi hãy giữ mình về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê.”

12 Bấy giờ, họ đã hiểu rằng, Ngài chẳng phán hãy giữ mình về men của bánh, nhưng về giáo lý của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê.

Mác 8:11-26

11 Những người Pha-ri-si đã đến và đã bắt đầu tra hỏi Ngài, tìm kiếm nơi Ngài một dấu lạ từ trời để thử Ngài.

12 Ngài đã thở dài trong tâm thần của Ngài và phán: “Sao thế hệ này xin dấu lạ? Thật, Ta nói với các ngươi, sẽ chẳng có dấu lạ được ban cho thế hệ này.”

13 Ngài đã bỏ họ, vào lại trong thuyền, đi qua bờ bên kia.

14 Họ đã quên đem theo bánh. Họ cũng không có trong thuyền với họ hơn một cái bánh.

15 Ngài đã truyền cho họ rằng: “Hãy coi chừng, xem xét về men của những người Pha-ri-si, và men của Hê-rốt.”

16 Họ đã bàn luận với nhau rằng: “Vì chúng ta không có bánh.”

17 Đức Chúa Jesus biết thì phán với họ: “Sao các ngươi bàn luận với nhau, vì các ngươi không có bánh? Sao các ngươi chưa nhận thức cũng chưa hiểu? Có phải lòng của các ngươi vẫn còn cứng?

18 Các ngươi có mắt mà không thấy sao? Các ngươi có tai mà không nghe sao? Các ngươi không nhớ sao?

19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, các ngươi nhặt được bao nhiêu giỏ đầy những miếng vụn?” Họ thưa: “Mười hai.”

20 “Còn khi bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các ngươi nhặt được bao nhiêu giỏ đầy những miếng vụn?” Họ đã thưa: “Bảy.”

21 Ngài đã phán với họ: “Sao các ngươi còn chưa hiểu?”

22 Ngài đi đến Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài một người mù để xin Ngài chạm vào người.

23 Ngài đã nắm tay người mù, dắt người ra ngoài làng. Ngài đã nhổ nước miếng trên mắt của người. Ngài đã đặt tay trên người, hỏi người, có thấy gì không?

24 Người đã nhìn lên, thưa: “Tôi thấy người ta đang đi, giống như những cây.”

25 Rồi, Ngài lại đặt tay trên mắt của người, khiến người nhìn lên. Người đã được phục hồi và đã thấy mọi vật rõ ràng.

26 Ngài đã cho người đi về nhà của người, phán rằng: “Đừng đi vào trong làng, cũng đừng nói với ai trong làng.”

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về sự những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê thử Đức Chúa Jesus; sự Ngài cảnh báo các môn đồ của Ngài về giáo lý của họ; và về sự Ngài chữa lành một người mù tại Bết-sai-đa.

Ma-thi-ơ 16:1-3

1 Những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê đã đến, thử Ngài, muốn Ngài tỏ ra cho họ một dấu lạ từ trời.

2 Nhưng Ngài đã trả lời, phán với họ: “Vào buổi tối, các ngươi nói, thời tiết tốt, vì trời đỏ.

3 Còn sáng sớm thì nói, hôm nay có mưa giông, vì trời đỏ và nhiều mây. Hỡi những kẻ giả hình! Các ngươi thật có thể phân biệt sắc trời mà các ngươi không thể phân biệt những dấu lạ của các thời kỳ sao?

Mác 8:11

11 Những người Pha-ri-si đã đến và đã bắt đầu tra hỏi Ngài, tìm kiếm nơi Ngài một dấu lạ từ trời để thử Ngài.

Danh từ “Pha-ra-si” có nghĩa là những người tự biệt riêng để phụng sự Thiên Chúa. Phái Pha-ri-si tự xem họ là những người được biệt riêng để lo việc sao chép Thánh Kinh và giải thích Thánh Kinh. Phần lớn họ là những Ra-bi (Rabbi), chuyên việc giảng dạy Thánh Kinh, hoặc là những thầy thông giáo, chuyên việc sao chép và giải thích Thánh Kinh, hoặc là các nghị viên trong Tòa Công Luận [1].

Danh từ “Sa-đu-sê” có nghĩa là những người công chính. Phái Sa-đu-sê có lẽ ra từ dòng họ của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Xa-đốc, là thầy tế lễ thượng phẩm trong triều đại của Vua Đa-vít và Vua Sa-lô-môn. Phái Sa-đu-sê bao gồm giới thầy tế lễ thượng phẩm, các gia đình quý tộc, các thương gia, các nhà giàu có. Phái Sa-đu-sê khác biệt đáng kể với phái Pha-ri-si về Thần học của họ. Người Sa-đu-sê không tin vào đời sau hoặc sự phục sinh của thân thể xác thịt theo nghĩa đen. Họ không tin những gì không được chép trong Thánh Kinh. Vì thế, họ không tin các lời truyền khẩu như phái Pha-ri-si. Họ giải thích và áp dụng các điều răn hoàn toàn theo nghĩa đen [2].

Hai phái Pha-ri-si và Sa-đu-sê không ưa nhau nhưng khi có dịp thì họ liên kết với nhau để chống lại Đức Chúa Jesus. Ma-thi-ơ ghi cả người Pha-ri-si lẫn người Sa-đu-sê đến gặp Đức Chúa Jesus để thử Ngài, nhưng Mác thì chỉ ghi những người Pha-ri-si. Chúng ta hiểu rằng, Ma-thi-ơ ghi lại theo sự quan sát của ông, còn Mác thì ghi lại theo lời tường thuật của người khác. Người thuật chuyện có thể không nhận biết sự có mặt của những người Sa-đu-sê.

Vào lúc sự kiện này xảy ra thì có lẽ Đức Chúa Jesus và các môn đồ của Ngài vẫn đang ở tại Đa-ma-nu-tha, gần thành Ma-ga-đan (Ma-thi-ơ 15:39; Mác 8:10). Nhưng cũng có thể Ngài và các môn đồ đã đi bộ về lại Ca-bê-na-um; một hành trình khoảng 8 km. Những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê có thể là cư dân của thành Ca-bê-na-um. Họ yêu cầu Đức Chúa Jesus làm ra cho họ xem một dấu lạ từ trời, để chứng minh Ngài là Đấng Christ đã được hứa trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, thâm tâm của họ là để Ngài không thể làm ra dấu lạ từ trời thì họ có lý do để phản bác Ngài. Dấu lạ từ trời mà họ đòi hỏi Đức Chúa Jesus làm là phép lạ không xảy ra trên đất. Họ muốn được thấy dấu lạ tương tự như ma-na từ trời rơi xuống (Xuất Ê-díp-tô Ký 16), như mặt trời dừng lại hoặc lui lại (Giô-suê 10:12-13; Ê-sai 38:8), hoặc như mưa và sấm sét bất chợt đổ xuống (I Sa-mu-ên 12:16-18).

Tuy nhiên Đức Chúa Jesus đã không đáp ứng sự yêu cầu của họ. Trái lại, Ngài quở trách họ về sự họ có thể nhìn sắc trời để đoán biết thời tiết nhưng lại không biết nhìn vào các dấu lạ để phân biệt các thời kỳ.

Danh từ “các thời kỳ” (G2540) được Đức Chúa Jesus dùng để chỉ ba thời kỳ:

  • Thời kỳ Đấng Christ đến, thi hành sự cứu chuộc loài người và thành lập Hội Thánh. Các dấu lạ báo trước thời kỳ này bao gồm ngôi sao dẫn đường các nhà thông thái đông phương đến thờ phượng Đức Chúa Jesus, khi Ngài được sinh ra tại Bết-lê-hem, và tất cả các phép lạ Đức Chúa Jesus làm ra, cùng sự chịu chết, sự sống lại, và sự thăng thiên của Ngài.

  • Thời kỳ Đấng Christ trở lại để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Các dấu lạ báo trước thời kỳ này bao gồm hai kỳ Thế Giới Đại Chiến, và rất có thể kỳ Thế Giới Đại Chiến lần thứ ba, sự tái lập quốc của dân I-sơ-ra-ên, sự dân I-sơ-ra-ên làm chủ hoàn toàn thành thánh Giê-ru-sa-lem, cùng những cơn đói kém, những cơn dịch bệnh, và những cơn động đất trong nhiều chỗ. Chính Đức Chúa Jesus đã tiên tri về các dấu lạ này [3], [4], [5].

  • Thời kỳ tận thế, bao gồm bảy năm, cũng là tuần lễ năm cuối cùng thuộc 70 tuần lễ năm đã được Đa-ni-ên tiên tri (Đa-ni-ên 9:24-27) [6]. Các dấu lạ báo trước thời kỳ này cũng đã được chính Đức Chúa Jesus tiên tri [3], [4], [5].

Nhiều người mang danh là con dân Chúa đã không quan tâm đến lời Đức Chúa Jesus quở trách những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê mà chúng ta đang học trong bài này. Họ chỉ biết nêu ra lời phán của Đức Chúa Jesus được ghi lại trong Ma-thi-ơ và Mác để cho rằng, con dân Chúa không nên tìm hiểu về thời kỳ Chúa đến.

Về ngày và giờ đó, chẳng ai biết, các thiên sứ trên trời cũng không, nhưng chỉ Cha Ta biết.” (Ma-thi-ơ 24:36).

Về ngày và giờ đó, chẳng ai biết, các thiên sứ trên trời cũng không, Đức Con cũng không, nhưng Đức Cha biết.” (Mác 13:32).

Những người ấy không hiểu rằng, về ngày và giờ Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian thì không ai biết. Nhưng chính Đấng Christ khuyên loài người nhìn vào thời sự để biết thời kỳ Chúa đến. Nếu con dân Chúa không biết thời kỳ Chúa đến thì làm sao có động lực để sốt sắng tỉnh thức, đón chờ? Làm sao biết “ngày ấy càng gần” để sốt sắng khuyên bảo nhau càng hơn, theo mệnh lệnh của Đức Thánh Linh?

Chớ bỏ qua sự nhóm hiệp của chúng ta như thói quen của một số người, nhưng hãy khuyên bảo nhau, và khuyên bảo càng hơn, khi các anh chị em thấy ngày ấy càng gần.” (Hê-bơ-rơ 10:25).

Trong ngụ ngôn về cây vả được chép trong Ma-thi-ơ 24:32-34, Đức Chúa Jesus đã khẳng định là sự Chúa đến sẽ xảy ra trong thế hệ của những người nhìn thấy dấu lạ dân I-sơ-ra-ên được tái lập quốc sau hơn 2.500 năm vong quốc, và dấu lạ dân I-sơ-ra-ên hoàn toàn làm chủ thành thánh Giê-ru-sa-lem. Sự dân I-sơ-ra-ên tái lập quốc là cây vả I-sơ-ra-ên được trồng trở lại trên lãnh thổ Ca-na-an. Sự dân I-sơ-ra-ên hoàn toàn chiếm lại chủ quyền trên thành thánh Giê-ru-sa-lem là cây vả I-sơ-ra-ên đâm chồi, nảy lộc. Thế hệ của những người được sinh ra trong khoảng thời gian từ ngày 14/05/1948 là ngày dân I-sơ-ra-ên tái lập quốc, cho tới ngày 07/06/1967 là ngày dân I-sơ-ra-ên hoàn toàn chiếm lại chủ quyền trên thành thánh Giê-ru-sa-lem, sẽ không qua đi hết, trước khi Đấng Christ đến. Theo Thánh Kinh, một thế hệ kéo dài khoảng 70 năm hay 80 năm:

Những ngày của những năm của chúng con là bảy mươi năm. Còn nếu mạnh khỏe thì đến tám mươi năm. Nhưng sự kiêu căng của chúng chỉ là lao khổ và buồn thảm. Vì chúng chóng qua, rồi chúng con bay mất đi.” (Thi Thiên 90:10).

Chúng ta thật sự đang sống trong những ngày cuối cùng trong lịch sử của Hội Thánh. Chúng ta sẽ là chứng nhân cho sự Đấng Christ đến, đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Dựa vào các lời tiên tri trong Thánh Kinh mà chúng ta hiểu và có thể tin rằng, thời điểm ấy có thể đến bất kỳ lúc nào và cho dù có đến muộn nhất thì cũng không quá ngày 07/06/2040. Chắc chắn là không ai biết giờ và ngày Đấng Christ đến. Nhưng nhìn vào thời sự, chúng ta biết mình đang ở trong thời kỳ Đấng Christ đến. Xin đọc bài “Kỳ Tận Thế và Năm 2027” [7] và bài “Kỳ Tận Thế và Các Năm 2030, 2040” [8].

Những ai bác bỏ sự tìm hiểu và nhận biết thời kỳ Đấng Christ đến sẽ mất đi rất nhiều ơn phước Chúa dành riêng cho những người suy ngẫm các lời tiên tri về sự trở lại của Ngài. Thực tế, đời sống của họ thiếu đi sự sốt sắng trông chờ Chúa trở lại, thiếu đi sự khích lệ để gắng sức sống đẹp lòng Ngài. Đời sống của những ai nhận biết mình đang sống trong thời kỳ Chúa trở lại là một đời sống vui thỏa trong mọi cảnh ngộ, vì họ đang tích cực dọn mình để ra đi với Chúa bất kỳ lúc nào.

Ma-thi-ơ 16:4

4 Một thế hệ hung ác và gian dâm hỏi xin một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào ban cho nó, ngoài dấu lạ của Tiên Tri Giô-na.” Rồi, Ngài bỏ họ mà đi.

Mác 8:12-13

12 Ngài đã thở dài trong tâm thần của Ngài và phán: “Sao thế hệ này xin dấu lạ? Thật, Ta nói với các ngươi, sẽ chẳng có dấu lạ được ban cho thế hệ này.”

13 Ngài đã bỏ họ, vào lại trong thuyền, đi qua bờ bên kia.

Đức Chúa Jesus gọi những người Pha-ri-si tự biệt riêng mình để sống cho Chúa và những người Sa-đu-sê tự xưng mình công chính là “thế hệ hung ác và gian dâm”. Từ ngữ được dịch là “thế hệ” (G1074) cũng có thể dịch là “dòng dõi”. Nhưng theo văn mạch thì dịch là “thế hệ” mới đúng nghĩa. Thế hệ là nhóm người sống trong cùng một khoảng thời gian. Trong khi dòng dõi thì bao gồm nhiều thế hệ của một gia đình, một bộ tộc, hoặc một sắc dân.

Hung ác” là cố tình sống nghịch lại các điều răn của Đức Chúa Trời, gây đau khổ và bất công cho những người khác.

Gian dâm” vừa có nghĩa tà dâm thuộc thể, vừa có nghĩa tà dâm thuộc linh. Tà dâm thuộc linh là sự vi phạm điều răn thứ nhất. Trong trường hợp của những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê là đặt chính bản thân họ và giáo phái của họ trên Đức Chúa Trời.

Đây không phải lần đầu tiên những người Pha-ri-si yêu cầu Đức Chúa Jesus làm ra dấu lạ. Mệnh đề “dấu lạ của Tiên Tri Giô-na” cũng đã được Đức Chúa Jesus dùng trước đó, như chúng ta đã học trong Ma-thi-ơ 12:39-40 và Lu-ca 11:29-30.

Trong sự ghi chép của Mác, chúng ta thấy có một chi tiết bất ngờ. Mác ghi là “Ngài đã thở dài trong tâm thần của Ngài”. Mác không phải là chứng nhân trực tiếp như Ma-thi-ơ. Mác chỉ ghi lại theo lời tường thuật của người khác. Người thuật chuyện cho Mác làm sao biết được rằng, Đức Chúa Jesus đã thở dài trong tâm thần của Ngài? Hay là chính Đức Thánh Linh đã thần cảm cho Mác chi tiết ấy? Tương tự như trường hợp Lu-ca không là chứng nhân trực tiếp nhưng lại ghi rằng, trong khi Đức Chúa Jesus một mình cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê thì “mồ hôi của Ngài đã như những giọt máu lớn rơi xuống trên đất.” (Lu-ca 22:44).

Đức Chúa Jesus đã rời khỏi những người Pha-ri-si và những người Sa-đu-sê, xuống thuyền, đi qua bờ đối diện. Dựa vào Mác 8:22, chúng ta hiểu rằng, Ngài đã cập bến một nơi gần làng Bết-sai-đa.

Ma-thi-ơ 16:5-6

5 Khi các môn đồ của Ngài đã đi đến bờ bên kia, họ đã quên đem theo bánh.

6 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Hãy coi chừng và hãy giữ mình về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê!”

Mác 8:14-15

14 Họ đã quên đem theo bánh. Họ cũng không có trong thuyền với họ hơn một cái bánh.

15 Ngài đã truyền cho họ rằng: “Hãy coi chừng, xem xét về men của những người Pha-ri-si, và men của Hê-rốt.”

Mặc dù trước đó, Đức Chúa Jesus đã hóa bánh và cá ra nhiều cho hơn 4.000 người ăn và các môn đồ của Chúa đã nhặt được bảy giỏ những miếng thừa, nhưng họ đã không đem theo một phần bánh và cá đó để ăn. Có thể khi thuyền cập bến thì cũng đã tới giờ ăn trưa, và các môn đồ đã tìm thấy, họ chỉ có một miếng bánh. Có thể họ đã trách nhau về việc quên đem theo thức ăn. Vừa lúc ấy, Đức Chúa Jesus phán dạy họ, bảo họ hãy coi chừng và hãy giữ mình về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê. Mác thì thay thế danh từ “những người Sa-đu-sê” bằng danh từ “Hê-rốt”.

Hê-rốt là danh hiệu của các vua người Ê-đôm do đế quốc La-mã phong chức cho cai trị vùng Giu-đê. Đầu tiên là Hê-rốt Đại Đế (Herod the Great): Cai trị từ năm 37 TCN tới năm 4 TCN. Ông nổi tiếng với các công trình xây dựng lớn, bao gồm việc mở rộng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông cũng là người ra lệnh tàn sát trẻ con từ hai tuổi trở xuống trong làng Bết-lê-hem và các vùng phụ cận, mong rằng, có thể giết được hài nhi Jesus. Hê-rốt là tên gọi của ông. Về sau, các con và cháu của ông khi được làm vua thì lấy đó làm danh hiệu. Tên Hê-rốt có nghĩa là “anh hùng”.

Hê-rốt An-ti-ba là con trai của Hê-rốt Đại Đế, cai trị Ga-li-lê từ năm 4 TCN tới năm 39. Ông là người giết Giăng Báp-tít và được Thống Đốc Phi-lát giải giao Đức Chúa Jesus cho ông xét xử.

Hê-rốt Ạc-ríp-ba Đệ Nhất là cháu nội của Hê-rốt Đại Đế, cai trị vùng đất rộng lớn bao gồm Giu-đê, Sa-ma-ri, I-đu-mê, Ga-li-lê, và Bê-rê-a (Perea), từ năm 41 tới năm 44. Ông là người giết Sứ Đồ Gia-cơ, bắt giam Sứ Đồ Phi-e-rơ, nhưng thiên sứ đã cứu Phi-e-rơ ra khỏi ngục. Ông tiếp nhận lời tôn vinh của dân chúng, tôn ông làm thần nên đã bị thiên sứ đánh, khiến cho ông bị trùng ăn mà chết (Công Vụ Các Sứ Đồ 12:20-23).

Hê-rốt Ạc-ríp-ba Đệ Nhị, con trai của Hê-rốt Ạc-ríp-ba Đệ Nhất, cai trị một phần lãnh thổ thuộc phía bắc xứ Ca-na-an và có quyền giám sát Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem, quyền bổ nhiệm các thầy tế lễ thượng phẩm, từ năm 50 tới năm 93. Ông là người được Sứ Đồ Phao-lô làm chứng và giảng Tin Lành cho, trước khi Phao-lô bị giải đến La-mã. Ông cũng chứng kiến Đền Thờ và thành Giê-ru-sa-lem bị quân lính La-mã hủy diệt vào năm 70. Nhưng ông đứng về phía người La-mã.

Men của Hê-rốt” có lẽ là nói về chính sách thân thiết với nhà cầm quyền La-mã của dòng họ Hê-rốt cùng với chính sách hợp tác giữa các Hê-rốt với những người Sa-đu-sê. Men của Hê-rốt có thể được hiểu là chính sách hợp tác với nhà cầm quyền và giới thượng lưu giàu có để thu lợi, bất kể sự khó khăn và thiệt hại gây ra cho dân I-sơ-ra-ên. Men của những người Sa-đu-sê cũng tương tự như men của Hê-rốt. Vì họ cũng theo đuổi sự hợp tác với các nhà cầm quyền. Còn “men của những người Pha-ri-si” là những sự dạy dỗ không đúng Lời Chúa của họ.

Ma-thi-ơ 16:7-8

7 Họ đã bàn luận cùng nhau rằng: “Vì chúng ta đã không đem theo bánh.”

8 Đức Chúa Jesus đã biết thì đã phán với họ: “Hỡi những kẻ ít đức tin, sao các ngươi bàn luận cùng nhau, vì các ngươi đã không đem theo bánh?

Mác 8:16-18

16 Họ đã bàn luận với nhau rằng: “Vì chúng ta không có bánh.”

17 Đức Chúa Jesus biết thì phán với họ: “Sao các ngươi bàn luận với nhau, vì các ngươi không có bánh? Sao các ngươi chưa nhận thức cũng chưa hiểu? Có phải lòng của các ngươi vẫn còn cứng?

18 Các ngươi có mắt mà không thấy sao? Các ngươi có tai mà không nghe sao? Các ngươi không nhớ sao?

Các môn đồ của Chúa nghe Chúa bảo họ coi chừng và giữ mình về men của những người Pha-ri-si, của những người Sa-đu-sê, và của Hê-rốt thì họ nghĩ là Chúa trách khéo họ, vì họ đã quên đem theo bánh. Vì thế, họ đã bàn luận với nhau rằng, Chúa phán bảo như vậy, vì họ đã không đem theo bánh.

Các môn đồ của Chúa chẳng những đã không hiểu rằng, Chúa đang phán dạy họ một điều quan trọng, mà họ còn đánh giá thấp Chúa, xem Chúa như một người nói bóng nói gió để bắt lỗi người khác.

Dù họ bàn luận với nhau về lời phán dạy của Chúa nhưng Ngài biết sự bàn luận của họ và quở trách họ.

Có lẽ Ma-thi-ơ chỉ ghi cách vắn tắt lời quở trách của Chúa nhưng Mác thì ghi chi tiết hơn. Chúa đã gọi các môn đồ là “những kẻ ít đức tin”, vì họ đã hai lần chứng kiến việc Chúa hóa bánh và cá ra nhiều mà lại nghĩ rằng, Chúa nói bóng nói gió để quở trách họ sự họ quên đem theo bánh.

Chúa hỏi họ sao họ vẫn chưa nhận thức những việc Chúa làm để hiểu Ngài là ai và năng lực của Ngài là siêu nhiên. Có phải sự cứng cỏi trong lòng họ khiến cho họ khó tin nhận Chúa là Đấng Christ đã được hứa trong Thánh Kinh? Sự cứng lòng là sự không chịu tiếp nhận lẽ thật, dù đã được giảng dạy và chứng minh. Như Pha-ra-ôn khi xưa đã cứng lòng trước những lời của Môi-se và những phép lạ Đức Chúa Trời làm qua Môi-se.

Ngày nay, trong vòng con dân Chúa cũng có những người vẫn cứng lòng, không tin rằng, Đức Chúa Trời là Đấng ban cho họ mọi nhu cầu vật chất. Họ vẫn lo lắng về đời này và để thời gian, công sức lo cho các nhu cầu vật chất, hơn là “tìm kiếm Vương Quốc của Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài” (Ma-thi-ơ 6:33). Vì thế, đời sống của họ đầy lo âu, mệt mỏi, mà vẫn thiếu thốn và khốn khổ. Ngược lại, cũng có những người nói rằng, Đức Chúa Trời chăm sóc họ nên họ không siêng năng làm việc kiếm sống, mà dựa vào sự cứu giúp của người khác. Họ không học biết mệnh lệnh này của Đức Thánh Linh:

Khi chúng tôi ở với các anh chị em, chúng tôi đã truyền cho các anh chị em rằng: Nếu ai không muốn làm việc, thì cũng không nên ăn. Vì chúng tôi nghe có mấy kẻ sống vô luật pháp giữa vòng các anh chị em, chẳng làm việc gì cả, ngoại trừ những việc vô ích. Với những kẻ như vậy, chúng tôi bởi Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, truyền và khuyên rằng, họ phải im lặng mà làm việc, ăn bánh của chính mình.” (II Tê-sa-lô-ni-ca 3:10-12).

Các ngươi có mắt mà không thấy sao? Các ngươi có tai mà không nghe sao?” Hai câu này nói về mắt và tai thuộc thể lẫn thuộc linh. Một người chỉ quan sát và nghe bằng mắt và tai của xác thịt vẫn có thể hiểu được những gì Đức Chúa Jesus làm ra và phán dạy không phải là bình thường. Một người biết dùng thần trí để suy ngẫm những gì đã thấy và nghe từ Đức Chúa Jesus thì sẽ nhận thức và hiểu được lẽ thật về Đấng Christ.

Các ngươi không nhớ sao?” Câu này nhằm nhắc cho các môn đồ nhớ lại những phép lạ Đức Chúa Jesus đã làm ra mà gần nhất là hai lần Ngài hóa ra nhiều bánh và cá cho tổng cộng hơn 9.000 người ăn cách dư dật. Những phép lạ Đức Chúa Jesus đã làm ra với sự chứng kiến của các môn đồ đủ để chứng minh Ngài là Đấng Christ.

Ma-thi-ơ 16:9-10

9 Các ngươi chưa hiểu, cũng không nhớ năm cái bánh cho năm ngàn người, và bao nhiêu giỏ các ngươi đã nhặt?

10 Lại không nhớ bảy cái bánh cho bốn ngàn người, và bao nhiêu giỏ các ngươi đã nhặt?

Mác 8:19-20

19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, các ngươi nhặt được bao nhiêu giỏ đầy những miếng vụn?” Họ thưa: “Mười hai.”

20 “Còn khi bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các ngươi nhặt được bao nhiêu giỏ đầy những miếng vụn?” Họ đã thưa: “Bảy.”

Ma-thi-ơ vẫn tiếp tục ghi lại một cách vắn tắt và Mác vẫn ghi lại một cách chi tiết. Đức Chúa Jesus nhắc cho các môn đồ nhớ đến hai lần vừa qua, Ngài đã hóa bánh và cá ra nhiều cho hàng ngàn người ăn một cách dư dật. Nếu Ngài đã có thể làm như vậy thì sao Ngài lại quở trách họ, vì họ quên đem theo bánh? Và dẫu cho Chúa muốn quở trách họ về sự họ quên đem theo bánh thì Ngài cũng sẽ quở trách một cách thẳng thắn. Đức Chúa Jesus không bao giờ dùng lời nói bóng gió để quở trách các môn đồ.

Con dân Chúa cũng không nên dùng lời nói bóng gió mà nên thẳng thắn nói ra điều mình muốn nói.

Ma-thi-ơ 16:11-12

11 Sao các ngươi chẳng hiểu rằng, Ta đã không phán về bánh với các ngươi? Các ngươi hãy giữ mình về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê.”

12 Bấy giờ, họ đã hiểu rằng, Ngài chẳng phán hãy giữ mình về men của bánh, nhưng về giáo lý của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê.

Mác 8:21

21 Ngài đã phán với họ: “Sao các ngươi còn chưa hiểu?”

Phần cuối của sự việc được Ma-thi-ơ ghi lại chi tiết hơn Mác. Đức Chúa Jesus khẳng định với các môn đồ là Ngài không phán về bánh mà phán về men của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê. Bấy giờ, các môn đồ đã hiểu rằng, Chúa muốn họ giữ mình về giáo lý của hai loại người ấy.

Đức Chúa Jesus gọi sự giảng dạy của những người Pha-ri-si và của những người Sa-đu-sê là men. Vì nó có đặc tính lây lan nhanh chóng, làm thay đổi quan điểm của những ai lắng nghe và tin theo. Sự lây lan và làm cho thay đổi đó là xấu, vì đó là sự lây lan tà giáo, làm cho thay đổi quan điểm công chính của người nghe và tin theo. Tà giáo là bất cứ sự dạy dỗ nào nhân danh Chúa nhưng không đúng Thánh Kinh.

Mác 8:22-24

22 Ngài đi đến Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài một người mù để xin Ngài chạm vào người.

23 Ngài đã nắm tay người mù, dắt người ra ngoài làng. Ngài đã nhổ nước miếng trên mắt của người. Ngài đã đặt tay trên người, hỏi người, có thấy gì không?

24 Người đã nhìn lên, thưa: “Tôi thấy người ta đang đi, giống như những cây.”

Có lẽ nơi thuyền cập bến không cách xa làng Bết-sai-đa. Đức Chúa Jesus và các môn đồ của Ngài đã đi vào làng, sau khi thuyền cập bến. Tại đó, người ta đã đem một người mù đến cho Ngài, xin Ngài chữa lành cho người ấy.

Đức Chúa Jesus đã không chữa lành cho người ấy trước mặt những người khác, nhưng Ngài nắm tay, dắt người ấy ra khỏi làng. Có lẽ vào lúc ấy, Đức Chúa Jesus muốn được nghỉ ngơi nên Ngài không muốn cho nhiều người nhìn thấy sự chữa lành, rồi lại đưa thêm nhiều người có bệnh khác đến với Ngài.

Ngài cũng không phán một lời khiến cho người mù được sáng mắt, nhưng Ngài đã nhổ nước miếng trên mắt của người. Đây là một trong các trường hợp Đức Chúa Jesus không chữa lành bằng lời phán, như trường hợp được ghi lại trong Mác 10:46-53, nhưng bằng sự làm một vài hành động. Các trường hợp khác, khi Đức Chúa Jesus không chữa lành bằng lời phán nhưng bằng hành động, được chép trong Mác 7:31-37 mà chúng ta đã học trong bài trước, trong Ma-thi-ơ 20:29-34, và trong Giăng 9:1-41 mà chúng ta sẽ học.

Người mù cũng không được chữa lành ngay nhưng thị lực dần dần trở lại. Trước hết là người ấy thấy người ta đang đi, giống như những cây. Có nghĩa là nếu người ta không đang đi thì người ấy sẽ không phân biệt được giữa người với cây.

Mác 8:25-26

25 Rồi, Ngài lại đặt tay trên mắt của người, khiến người nhìn lên. Người đã được phục hồi và đã thấy mọi vật rõ ràng.

26 Ngài đã cho người đi về nhà của người, phán rằng: “Đừng đi vào trong làng, cũng đừng nói với ai trong làng.”

Đức Chúa Jesus đặt tay trên mắt của người ấy thì thị lực của người ấy hoàn toàn được phục hồi, khiến cho người ấy nhìn thấy mọi vật rõ ràng.

Chúng tôi không biết vì sao trong sự chữa lành cho một số người, Đức Chúa Jesus đã không chỉ dùng lời phán mà lại làm ra một số hành động. Thánh Kinh không hề giải thích cho nên mọi suy luận chỉ là thử tìm hiểu mục đích việc làm của Chúa. Sự suy luận như vậy chỉ có thể cho rằng, hợp lý hay không hợp lý, chứ không thể khẳng định là đúng hay sai.

Đức Chúa Jesus đã truyền cho người ấy về thẳng nhà chứ đừng đi vào làng và cũng đừng nói với ai trong làng. Có lẽ Chúa muốn có một khoảng thời gian yên nghỉ.

Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
31/08/2024

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

[1] https://thewordtoyou.net/dictionary/8-pha-ri-si

[2] https://thewordtoyou.net/dictionary/29-sa-du-se

[3] https://kytanthe.net/007-loi-tien-tri-cua-duc-chua-jesus-christ-phan-1/

[4] https://kytanthe.net/008-loi-tien-tri-cua-duc-chua-jesus-christ-phan-2/

[5] https://kytanthe.net/009-loi-tien-tri-cua-duc-chua-jesus-christ-phan-3/

[6] https://kytanthe.net/006-bay-muoi-tuan-le-nam-cua-da-ni-en/

[7] https://kytanthe.net/067-ky-tan-the-va-nam-2027/

[8] https://kytanthe.net/075-ky-tan-the-va-cac-nam-2030-2040/

Karaoke Thánh Ca: “Tôi Vẫn Thầm Mong”
https://karaokethanhca.net/toi-van-tham-mong/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.