Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL087 Đức Chúa Jesus Làm Chứng về Mình – Phần 1

35 views

YouTube: https://youtu.be/XjKVj8xdfx8

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL087 Đức Chúa Jesus Làm Chứng về Mình – Phần 1
Giăng 8:12-36

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Giăng 8:12-36

12 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ lần nữa rằng: “Ta là sự sáng của thế gian. Người theo Ta sẽ chẳng đi trong sự tối tăm nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”

13 Vậy, những người Pha-ri-si đã thưa với Ngài: “Ngài làm chứng về mình thì lời chứng của Ngài là không thật.”

14 Đức Chúa Jesus đã đáp lời, đã phán với họ: “Dù Ta làm chứng về mình, lời chứng của Ta là thật. Vì Ta biết, Ta đã từ đâu đến và Ta đi đâu. Nhưng các ngươi không biết, Ta từ đâu đến hoặc Ta đi đâu.

15 Các ngươi phán xét theo xác thịt. Ta thì không phán xét ai.

16 Nhưng nếu Ta phán xét, sự phán xét của Ta là thật. Vì Ta không là một mình, nhưng Ta với Cha, Đấng đã sai Ta.

17 Trong luật pháp của các ngươi đã được chép rằng, lời chứng của hai người là thật.

18 Ta là chứng nhân cho Ta, và Cha, Đấng đã sai Ta, làm chứng cho Ta.”

19 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Cha của Ngài ở đâu?” Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Các ngươi chẳng biết Ta hoặc Cha của Ta. Nếu các ngươi đã biết Ta thì các ngươi cũng đã biết Cha của Ta.”

20 Những lời ấy Ngài đã phán tại kho bạc, khi đang dạy trong Đền Thờ. Không ai đã bắt Ngài, vì giờ của Ngài đã chưa đến.

21 Vậy, Ngài lại đã bảo họ: “Ta đi, các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươi. Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến.”

22 Vậy, những người Do-thái đã nói: “Chẳng lẽ người sẽ tự tử? Vì người nói, nơi Ta đi, các ngươi không thể đến.”

23 Ngài đã bảo họ: “Các ngươi là từ phía dưới. Ta là từ phía trên. Các ngươi là thuộc về thế gian này. Ta thì không thuộc về thế gian này.

24 Vậy, Ta đã bảo các ngươi rằng, các ngươi sẽ chết trong những tội lỗi của các ngươi. Vì nếu các ngươi chẳng tin rằng, Ta Là, thì các ngươi sẽ chết trong những tội lỗi của các ngươi. [Ta Là = Danh xưng của Thiên Chúa, có nghĩa: Ta Tự Hữu Hằng Hữu. So sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14.]

25 Vậy, họ đã hỏi Ngài: “Ngài là ai?” Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Như Ta bảo các ngươi lúc đầu,

26 Ta có nhiều sự để nói và phán xét về các ngươi. Nhưng Đấng đã sai Ta là thật, và Ta nói cho thế gian những gì Ta đã nghe từ Ngài.”

27 Họ đã không hiểu rằng, Ngài đã phán với họ về Đức Cha.

28 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Khi các ngươi đã treo Con Người lên, bấy giờ, các ngươi sẽ biết rằng, Ta Là. Và Ta không làm gì tự mình, nhưng Ta nói những điều này theo như Đức Cha đã dạy Ta.

29 Đấng đã sai Ta ở với Ta. Đức Cha chẳng để Ta một mình, vì Ta luôn làm những sự đẹp lòng Ngài.”

30 Khi Ngài phán những lời này, nhiều người đã tin nơi Ngài.

31 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với những người Do-thái đã tin Ngài: “Nếu các ngươi cứ ở lại trong Lời của Ta, các ngươi thật là những môn đồ của Ta.

32 Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ giải phóng các ngươi.”

33 Họ đã đáp lời Ngài: “Chúng tôi là dòng dõi của Áp-ra-ham, chưa hề là nô lệ của ai. Sao Ngài nói, các ngươi sẽ trở nên tự do?”

34 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Thật sự! Thật sự! Ta bảo các ngươi. Ai làm ra tội lỗi là nô lệ của tội lỗi.

35 Nô lệ không cứ ở lại trong nhà cho tới vĩnh cữu nhưng Đức Con cứ ở lại cho tới vĩnh cửu.

36 Vậy, nếu Đức Con giải phóng các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do.

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học phần thứ nhất về các lời Đức Chúa Jesus tự làm chứng về mình và các lời Ngài quở trách những người Pha-ri-si không có lòng vâng phục Đức Chúa Trời.

Giăng 8:12-13

12 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ lần nữa rằng: “Ta là sự sáng của thế gian. Người theo Ta sẽ chẳng đi trong sự tối tăm nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”

13 Vậy, những người Pha-ri-si đã thưa với Ngài: “Ngài làm chứng về mình thì lời chứng của Ngài là không thật.”

Phân đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đang học trong bài này ghi lại sự việc diễn ra, tiếp theo sự những thầy thông giáo và những người Pha-ri-si đã đem một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để thử Đức Chúa Jesus. Khi đó, Ngài đang giảng dạy cho dân chúng, trong khuôn viên của Đền Thờ. Nhóm người bao gồm những thầy thông giáo và những người Pha-ri-si muốn thử Chúa đã lần lượt theo nhau, rời khỏi đó, như câu 9 đã ghi lại. Tuy nhiên, trong đám dân đông tụ tập nghe Đức Chúa Jesus giảng dạy, cũng có những người thuộc giới Pha-ri-si.

Lời phán của Đức Chúa Jesus được ghi lại trong câu 7: “Ai trong các ngươi vô tội, hãy ném đá vào người trước”, không chỉ dành riêng cho những người công khai kiện cáo người đàn bà trước Ngài, mà là lời phán chung cho tất cả những người Pha-ri-si đang có mặt. Vì họ là những người tự cho mình quyền giải thích luật pháp và thi hành luật pháp. Vì thế, câu 12 chép: “Đức Chúa Jesus đã bảo họ lần nữa”, có nghĩa là Ngài phán bảo những người Pha-ri-si có mặt trong đám đông. Lúc ấy, có lẽ họ là những người đứng ở hàng đầu, gần Đức Chúa Jesus nhất.

Nếu chúng ta để ý thì sẽ thấy, trong mỗi lần Đức Chúa Jesus phán dạy đám dân đông, nếu có mặt những thầy thông giáo, những người Pha-ri-si, những người Sa-đu-sê thì họ luôn chiếm hàng đầu, ở gần Chúa nhất. Có thể đó là do sự dân chúng tôn trọng họ nên nhường chỗ cho họ.

Đức Chúa Jesus tự xưng Ngài là “sự sáng của thế gian” có nghĩa:

1. Ngài là sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa loài người nơi thế gian: “…Đức Chúa Trời là sự sáng và trong Ngài chẳng có sự tối tăm nào cả.” (I Giăng 1:5). Đức Chúa Jesus là sự hiện diện của Đức Chúa Trời vì Ngài thể hiện tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Đức Chúa Trời cho loài người.

2. Ngài giúp cho loài người hiểu biết về sự vinh quang của Đức Chúa Trời: “Vì Đức Chúa Trời, Đấng đã phán, sự sáng phải chiếu sáng từ sự tối tăm là Đấng đã chiếu sáng trong những tấm lòng của chúng tôi, để ban cho sự sáng láng của sự hiểu biết về sự vinh quang của Đức Chúa Trời nơi mặt của Đức Chúa Jesus Christ.” (II Cô-rinh-tô 4:6).

3. Ngài là sự cứu rỗi của loài người: “Các dân đã ngồi trong sự tối tăm, đã nhìn thấy ánh sáng lớn. Với những kẻ đã ngồi trong miền và bóng của sự chết, thì ánh sáng đã bừng lên.” (Ma-thi-ơ 4:16).

4. Ngài là sự sống của loài người: “Trong Ngài, hằng có sự sống. Sự sống hằng là sự sáng của loài người.” (Giăng 1:4).

5. Ngài là Thiên Chúa Ngôi Lời, là sự dẫn dắt và hướng dẫn loài người: “Lời Ngài là ngọn đèn cho chân tôi và ánh sáng cho đường lối tôi.” (Thi Thiên 119:105).

6. Ngài là Đấng phơi bày mọi việc ác và mọi việc lành của loài người: “Vì ai làm ác thì ghét sự sáng, cũng không đến với sự sáng, kẻo những việc làm của kẻ ấy bị lên án. Nhưng ai làm sự chân thật thì đến với sự sáng để những việc làm của người ấy được bày tỏ ra, vì là chúng đã được làm ra trong Thiên Chúa.” (Giăng 3:20-21).

7. Ngài là người rao giảng Lời của Đức Chúa Trời và Ngài là người sống theo Lời của Đức Chúa Trời để làm gương cho mọi người. Cũng chính vì thế mà Ngài gọi những môn đồ chân thật của Ngài là “sự sáng của thế gian” (Ma-thi-ơ 5:14). Ai xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ thì phải sống theo Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa.

Nói cách tổng hợp, Ngài là “sự sáng của thế gian” có nghĩa Ngài là Đấng Mê-si-a, tức Đấng Christ, đã được hứa trong Cựu Ước.

“Đi trong sự tối tăm” là sống trong tội lỗi và trong hậu quả của sự phạm tội, thiếu vắng tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Thiên Chúa. Nghĩa là thiếu vắng sự bình an, vui mừng, và hạnh phúc.

“Có ánh sáng của sự sống” là có chính Đức Chúa Jesus, là có sự bình an, vui mừng, và hạnh phúc. Tất cả những ai được sinh ra trong thời kỳ của Hội Thánh mà thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus thì người ấy có Ngài và được hiệp một cách mầu nhiệm với Ngài. Thời kỳ của Hội Thánh là từ khi Hội Thánh được thành lập vào ngày Lễ Ngũ Tuần năm 27 cho tới khi Hội Thánh được Đấng Christ cất ra khỏi thế gian. Chỉ những con dân Chúa trong thời kỳ Hội Thánh trung tín với Chúa cho tới chết mới có được ân điển kết hiệp cách mầu nhiệm với Đức Chúa Jesus, như lời tiên tri được ghi lại trong Khải Huyền 19:7-9. Trung tín có nghĩa là giữ vững đức tin nơi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus và vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa, bao gồm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus Christ, và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17; Giăng 13:34; Công Vụ Các Sứ Đồ 15:29).

Những người Pha-ri-si nghe Đức Chúa Jesus tự xưng, Ngài là sự sáng của thế gian, thì họ hiểu ngay, Ngài tự xưng mình là Đấng Christ. Vì thế, họ lên tiếng phản bác, cho rằng, lời chứng của Ngài là không thật, vì chỉ là lời chứng của một người. Theo luật pháp được ghi lại trong Thánh Kinh Cựu Ước, cần phải có ít nhất hai chứng nhân để một việc được công nhận là thật:

“Theo miệng của hai người chứng hay theo miệng của ba người chứng, mà sự việc mới được xác định.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 19:15b).

Chính Đức Chúa Jesus cũng khẳng định, cần phải có ít nhất hai chứng nhân:

“Nhưng nếu người không nghe, hãy đem với ngươi một hoặc hai người nữa, để mọi lời trong miệng của hai hay ba người chứng được vững lập.” (Ma-thi-ơ 18:16).

Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô cũng khẳng định:

“Bởi miệng của hai hay ba chứng nhân mỗi lời nói sẽ được thành lập.” (II Cô-rinh-tô 13:1b).

Và có lẽ những người Pha-ri-si này cũng đã từng nghe Chúa phán dạy trước đó, khi Ngài phán:

“Nếu Ta làm chứng về mình thì lời chứng của Ta không là thật.” (Giăng 5:31).

Nhưng tiếp liền theo đó, Đức Chúa Jesus cũng đã phán:

“Có Đấng khác là chứng nhân cho Ta, và Ta biết rằng, lời chứng mà Đấng ấy làm chứng về Ta là thật. Các ngươi sai người đến với Giăng, thì người đã làm chứng cho lẽ thật.” (Giăng 5:32-33).

“Đấng khác” chính là Đức Chúa Trời. Có hai chứng nhân làm chứng về tư cách làm “sự sáng của thế gian” của Đức Chúa Jesus. Đó là Đức Chúa Trời và Giăng Báp-tít. Trên trời và trên đất, Thiên Chúa và loài người đều làm chứng về Đức Chúa Jesus. Lời chứng của Đức Chúa Jesus chỉ là sự nhắc lại lẽ thật của các lời chứng ấy.

Giăng 8:14-16

14 Đức Chúa Jesus đã đáp lời, đã phán với họ: “Dù Ta làm chứng về mình, lời chứng của Ta là thật. Vì Ta biết, Ta đã từ đâu đến và Ta đi đâu. Nhưng các ngươi không biết, Ta từ đâu đến hoặc Ta đi đâu.

15 Các ngươi phán xét theo xác thịt. Ta thì không phán xét ai.

16 Nhưng nếu Ta phán xét, sự phán xét của Ta là thật. Vì Ta không là một mình, nhưng Ta với Cha, Đấng đã sai Ta.

Lời phán của Đức Chúa Jesus trong Giăng 5:31 hàm ý, nếu Ngài tự làm chứng về Ngài thì lời chứng của Ngài không được kể là sự thật, trên phương diện luật pháp.

Lời phán của Đức Chúa Jesus trong Giăng 8:14 hàm ý, dù cho lời Ngài tự làm chứng về Ngài xét trtên phương diện luật pháp không được kể là thật, nhưng thực tế, lời chứng của Ngài là lẽ thật.

Đức Chúa Jesus biết rõ, Ngài từ trời đến thế gian để làm sự cứu chuộc loài người, và Ngài sẽ về lại trời, sau khi hoàn thành ơn cứu chuộc. Toàn thể loài người không ai biết rằng, Ngài từ trời đến và sẽ về lại trời. Đối với họ, Ngài chỉ là con trai của một người thợ mộc bình dân, trong một thành nhỏ, không có danh tiếng. Thậm chí, Ngài cũng không đi học, không là học trò của các giáo sư Do-thái Giáo.

Loài người luôn phán xét mọi sự theo cảm nhận và suy nghĩ của xác thịt, nghĩa là không theo nhận thức và suy luận của thần trí. Đó là vì họ đã bị chết về thuộc linh, tâm thần của họ không còn được giao thông với Thiên Chúa nên họ không có sự nhận thức lẽ thật trong thần trí. Ngoại trừ một số ít người tin kính Đức Chúa Trời và được Ngài sai dùng.

Lần thứ nhất Thiên Chúa Ngôi Lời đến thế gian trong thân thể xác thịt loài người không phải để phán xét thế gian, nhưng để cứu chuộc thế gian: “Vì Ta đã đến, chẳng để phán xét thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Giăng 12:47b). Nhưng nếu Ngài làm sự phán xét thì sự phán xét của Ngài là đúng theo lẽ thật. Vì Ngài là sự sáng của thế gian, phơi bày mọi việc làm ác và mọi việc làm lành của mỗi người trong thế gian. Sự phán xét của Ngài được sự đồng thuận của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, Ngài và Đức Chúa Trời là hai chứng nhân cho mỗi việc làm của mỗi người trong thế gian. Vì thế, sự phán xét của Ngài trên bất cứ ai chẳng những là thật về thực tế theo mỗi việc làm của người ấy mà còn là thật theo tiêu chuẩn phải có hai chứng nhân của luật pháp.

Giăng 8:17-19

17 Trong luật pháp của các ngươi đã được chép rằng, lời chứng của hai người là thật.

18 Ta là chứng nhân cho Ta, và Cha, Đấng đã sai Ta, làm chứng cho Ta.”

19 Vậy, họ đã thưa với Ngài: “Cha của Ngài ở đâu?” Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Các ngươi chẳng biết Ta hoặc Cha của Ta. Nếu các ngươi đã biết Ta thì các ngươi cũng đã biết Cha của Ta.”

Đức Chúa Jesus bắt đầu giải thích cho những người Pha-ri-si đang đối thoại với Ngài rằng, Cha của Ngài và Ngài là hai chứng nhân làm chứng về Ngài. Thực tế, luật pháp do Môi-se công bố không hề ngăn cấm một người tự làm chứng cho mình, mà chỉ yêu cầu mỗi sự việc cần phải có hai hay ba chứng nhân.

Những người Pha-ri-si có lẽ biết rằng, người cha theo xác thịt và luật pháp của Đức Chúa Jesus là Giô-sép, khi ấy có lẽ đã qua đời, nên họ hỏi khó Ngài: “Cha của Ngài ở đâu?”

Đức Chúa Jesus khẳng định, họ chẳng biết Ngài và cũng chẳng biết Cha của Ngài. Đồng thời, Ngài cũng nói lên một lẽ thật, ai biết Ngài thì biết Cha của Ngài.

Biết Đức Chúa Jesus là biết rằng, Ngài là Thiên Chúa nhập thế làm người để ban sự cứu rỗi cho loài người. Sự cứu rỗi ấy được thực hiện qua sự chết của Ngài để chuộc lại mạng sống cho toàn thể loài người đã chết vì phạm tội nghịch lại Đức Chúa Trời. Khi biết Đức Chúa Jesus là Đấng Cứu Rỗi, tức Đấng Christ, thì cũng biết được Đức Chúa Trời là Cha của Ngài và là Đấng sai Ngài vào trong thế gian, sau khi đã sinh ra Ngài trong lòng trinh nữ Ma-ri.

Chúng ta cần hiểu rằng, không phải Đức Chúa Trời sai Thiên Chúa Ngôi Lời vào trong thế gian. Nhưng Thiên Chúa Ngôi Lời tự nguyện nhập thế làm người. Lời Chúa đã ghi rõ:

“Đấng thực hữu trong hình thể của Thiên Chúa, nhưng chẳng coi sự bình đẳng của mình với Thiên Chúa là sự nên nắm giữ. Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, nhận lấy hình thể của tôi tớ, và trở nên ở trong sự giống như loài người, được tìm thấy trong thể trạng của một người; tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, đến nỗi chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2:6-8).

Chỉ sau khi Đức Chúa Trời sinh ra Ngài trong thân thể xác thịt loài người, trong lòng trinh nữ Ma-ri, thì Đức Chúa Trời mới sai Ngài vào trong thế gian, làm tôi tớ của Đức Chúa Trời để hoàn thành chương trình và ý định của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Cha của con người xác thịt Jesus nhưng Đức Chúa Trời không phải là Cha của Thiên Chúa Ngôi Lời. Vì Thiên Chúa Ngôi Lời đồng tự có và có tới đời đời với Đức Chúa Trời và Đấng Thần Linh.

Sự biết và tin nhận Đức Chúa Jesus, biết và tin nhận Đức Chúa Trời là do Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh thần cảm cho những ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus. Cũng chính khi đó, tâm thần của họ được tái sinh và được nối lại mối tương giao với Thiên Chúa, tiếp tục nhận lãnh những sự hiểu biết về Thiên Chúa và Lời Chúa.

Giăng 8:20-22

20 Những lời ấy Ngài đã phán tại kho bạc, khi đang dạy trong Đền Thờ. Không ai đã bắt Ngài, vì giờ của Ngài đã chưa đến.

21 Vậy, Ngài lại đã bảo họ: “Ta đi, các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươi. Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến.”

22 Vậy, những người Do-thái đã nói: “Chẳng lẽ người sẽ tự tử? Vì người nói, nơi Ta đi, các ngươi không thể đến.”

Danh từ “kho bạc” được dùng để chỉ khu vực đặt các thùng nhận tiền dâng hiến. Khu vực này nằm dọc theo hành lang bên ngoài của Đền Thờ, gần các cổng của Đền Thờ, để tiện cho mọi người có thể dâng hiến. Lúc bấy giờ, Đức Chúa Jesus đang giảng dạy dưới Mái Hiên Sa-lô-môn gần Cửa Đẹp nên có lẽ khu vực “kho bạc” được nói đến trong câu 20 là chỉ về vị trí đặt các thùng nhận tiền dâng hiến gần Cửa Đẹp.

Mặc dù những người Pha-ri-si rất khó chịu về những lời giảng dạy của Đức Chúa Jesus và muốn giết Ngài, nhưng cho tới khi ấy, không ai đã bắt Ngài. Chỉ vì một lý do đơn giản là giờ phút Đức Chúa Jesus bị bắt và bị giết chưa đến, theo sự định trước của Đức Chúa Trời, thì không ai có thể làm hại Đức Chúa Jesus.

Trong câu 21, Đức Chúa Jesus nói về sự Ngài sẽ vào thiên đàng, sau khi Ngài sống lại từ trong sự chết. Những người Pha-ri-si muốn bắt giết Ngài sẽ chết trong sự gian ác của họ. Lời phán của Đức Chúa Jesus chứng tỏ rằng, Ngài biết họ sẽ không ăn năn. Mặc dù có nhiều người Pha-ri-si tin nhận Đức Chúa Jesus nhưng những người đang đối diện Ngài lúc ấy là những người sẽ không ăn năn tội, sẽ không tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài. Họ sẽ không bao giờ có thể vào trong thiên đàng.

Danh từ “những người Do-thái” được dùng để gọi những người Pha-ri-si. Có lẽ, để nhấn mạnh sự kiện, họ thuộc về tuyển dân của Đức Chúa Trời nhưng họ cứng lòng, không tin, và không ăn năn sự gian ác của họ. Họ vẫn tiếp tục phán xét theo xác thịt, cho rằng, chẳng lẽ Đức Chúa Jesus sẽ tự tử. Vì đối với họ, chỉ khi Đức Chúa Jesus chết thì họ không thể chết theo để đến với Ngài. Còn cho dù Ngài đi đến bất cứ nơi nào trên đất thì họ cũng có thể đi đến với Ngài.

Giăng 8:23-24

23 Ngài đã bảo họ: “Các ngươi là từ phía dưới. Ta là từ phía trên. Các ngươi là thuộc về thế gian này. Ta thì không thuộc về thế gian này.

24 Vậy, Ta đã bảo các ngươi rằng, các ngươi sẽ chết trong những tội lỗi của các ngươi. Vì nếu các ngươi chẳng tin rằng, Ta Là, thì các ngươi sẽ chết trong những tội lỗi của các ngươi. [Ta Là = Danh xưng của Thiên Chúa, có nghĩa: Ta Tự Hữu Hằng Hữu. So sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14.]

“Phía dưới” là chỉ về thế gian, chỉ về thế giới thuộc thể. “Phía trên” là chỉ về thiên đàng, chỉ về thế giới thuộc linh. Đức Chúa Jesus dù được sinh ra làm người nhưng Ngài từ thiên đàng đến. Ngài không thuộc về thế gian mà thế gian thuộc về Ngài, vì Ngài dựng nên nó. Toàn thể loài người thuộc về thế gian, vì loài người được Thiên Chúa dựng nên trong thế gian và sinh sôi, nảy nở trong thế gian.

Nhóm chữ “Ta Là” trong câu 24 rất là đặc biệt. Khi được dùng không có bổ ngữ thì nó thường xác định một điều gì đã được nói trước đó hoặc trả lời xác định một câu hỏi. Nhưng khi được Thiên Chúa dùng, như trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14, và được Đức Chúa Jesus dùng tại đây, thì nó nói lên tính cách thực hữu của Thiên Chúa. Đó là: Ta tự có và có mãi. Lời phán của Đức Chúa Jesus có nghĩa là: “Vì nếu các ngươi chẳng tin rằng, Ta là Thiên Chúa, Đấng tự có và có mãi, thì các ngươi sẽ chết trong những tội lỗi của các ngươi.”

Ngày nay, có nhiều người xưng nhận mình tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, nhưng họ không công nhận Ngài là Thiên Chúa. Họ sẽ chết trong những tội lỗi của họ. Họ không có sự cứu rỗi. Vì họ đã tin vào một Jesus khác với Đức Chúa Jesus của Thánh Kinh, Đấng Thiên Chúa Ngôi Lời. Cũng chính vì thế mà họ vẫn cứ sống trong tội lỗi.

Giăng 8:25-27

25 Vậy, họ đã hỏi Ngài: “Ngài là ai?” Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Như Ta bảo các ngươi lúc đầu,

26 Ta có nhiều sự để nói và phán xét về các ngươi. Nhưng Đấng đã sai Ta là thật, và Ta nói cho thế gian những gì Ta đã nghe từ Ngài.”

27 Họ đã không hiểu rằng, Ngài đã phán với họ về Đức Cha.

Những người Pha-ri-si rất giỏi về Thánh Kinh. Họ biết và có lẽ thuộc lòng Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14, một câu Thánh Kinh vô cùng quan trọng đối với đức tin của Do-thái Giáo. Vì nó nói lên thuộc tính thực hữu mầu nhiệm của Thiên Chúa:

“Thiên Chúa đã phán với Môi-se: Ta là Đấng Ta Là. Rồi, Ngài đã phán: Vậy, ngươi hãy nói với con cháu I-sơ-ra-ên, Đấng Ta Là đã sai ta đến.”

Trong Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012, chúng tôi đã ghi chú như sau:

Động từ “là” có nghĩa “thực hữu” được dùng trong câu phán của Thiên Chúa mang ý nghĩa sau đây: “Ta Đã Tự Có, Ta Vẫn Đang Có, và Ta Sẽ Mãi Có”. Vì thế, cách nói: “Ta là Đấng Ta Là” có nghĩa: “Ta là Đấng đã tự có! Ta là Đấng vẫn có như Ta đang có! Và Ta là Đấng sẽ có như Ta mãi có!” Nói cách khác, Thiên Chúa tự xưng rằng, tên Ngài là: “Ta Đã Tự Có, Ta Vẫn Đang Có, và Ta Sẽ Mãi Có!” Tên riêng của Thiên Chúa đã được dịch khá chính xác sang tiếng Hán Việt là: “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”.

Chính vì thế mà khi nghe Đức Chúa Jesus tự xưng “Ta Là”, những người Pha-ri-si đã sững sờ hỏi: “Ngài là ai?” Có lẽ họ tưởng họ đã nghe lầm hoặc Đức Chúa Jesus đã nói lầm. Nhưng Đức Chúa Jesus không hề đính chính mà Ngài tiếp tục phán với họ.

“Như Ta bảo các ngươi lúc đầu” có nghĩa là: như Ta bảo các ngươi, Ta là sự sáng của thế gian, Ta là Đấng Christ.

Ngoài sự xưng nhận mình là sự sáng của thế gian, xưng nhận mình là Đấng Christ, Đức Chúa Jesus còn có nhiều điều để rao giảng. Vì ngoài sự thi hành ơn cứu rỗi loài người, Đức Chúa Jesus đến thế gian còn là để giãi bày về Thiên Chúa, tức là giãi bày về Ba Ngôi Thiên Chúa, như Lời đã chép trong Giăng 1:18. Đức Chúa Jesus giãi bày về Đức Chúa Trời, về Đấng Thần Linh, tức Đức Thánh Linh, và giãi bày về chính Ngài. Ngoài ra, sự giảng dạy của Ngài còn phơi bày mỗi sự ác và sự lành do loài người làm ra. Mọi sự giảng dạy của Ngài đều đến từ Đức Chúa Trời.

Tuy nhiên, những người Pha-ri-si đã không thể hiểu rằng, Đức Chúa Jesus đã phán với họ về Đức Chúa Trời mà Ngài gọi là Cha. Vì thực tế, thân thể xác thịt loài người của Ngài đã được Đức Chúa Trời sinh ra, trong lòng trinh nữ Ma-ri.

Giăng 8:28-29

28 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Khi các ngươi đã treo Con Người lên, bấy giờ, các ngươi sẽ biết rằng, Ta Là. Và Ta không làm gì tự mình, nhưng Ta nói những điều này theo như Đức Cha đã dạy Ta.

29 Đấng đã sai Ta ở với Ta. Đức Cha chẳng để Ta một mình, vì Ta luôn làm những sự đẹp lòng Ngài.”

Đức Chúa Jesus phán trước về sự sau khi những người Pha-ri-si khiến cho Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá cho tới chết thì các dấu lạ xảy ra sẽ khiến cho họ biết Ngài chính là Đấng Ta Là. Dấu lạ về sự trời đất trở nên tối tăm suốt ba tiếng đồng hồ (Ma-thi-ơ 27:45; Mác 15:33; Lu-ca 23:44). Dấu lạ về cơn động đất lớn tại khu vực Giê-ru-sa-lem. Dấu lạ về sự bức màn ngăn Nơi Thánh với Nơi Rất Thánh trong Đền Thờ bị xé toạt từ trên xuống dưới. Dấu lạ về nhiều thánh đồ đã chết được sống lại (Ma-thi-ơ 27:51-53). Ngay các lời Đức Chúa Jesus đang phán với họ cũng là các lời Đức Chúa Trời đã tỏ cho Ngài.

Đức Chúa Jesus khẳng định, Đức Chúa Trời luôn ở với Ngài, vì Ngài luôn vâng phục Đức Chúa Trời, sống theo thánh ý của Đức Chúa Trời. Chỉ ngoại trừ khoảng thời gian Đức Chúa Jesus bị treo trên thập tự giá để gánh thay án phạt cho sự phạm tội của loài người, thì Đức Chúa Trời mới tạm phân rẽ khỏi Ngài. Đó là lúc mà Đức Chúa Jesus kêu lên thảm thiết: “Đức Chúa Trời của tôi ơi! Đức Chúa Trời của tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” Hình phạt mà Đức Chúa Jesus gánh tahy cho loài người không phải chỉ sự chết của thân thể xác thịt mà còn là sự chết thuộc linh, là sự bị phân rẽ khỏi Đức Chúa Trời. Ngay khi Đức Chúa Jesus trút hơi thở cuối cùng thì Ngài hoàn thành sự chết chuộc tội cho loài người. Sự phân rẽ khỏi Đức Chúa Trời cũng được kết thúc. Đức Chúa Trời ban lại tâm thần cho Đức Chúa Jesus để Ngài đi vào âm phủ, công bố sự cứu rỗi cho các thánh đồ trong Ba-ra-đi, và công bố sự chiến thắng của Tin Lành cho các thiên sứ phạm tội bị giam trong vực sâu không đáy.

“Đấng Christ cũng vì những tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng Công Chính thay cho kẻ không công chính, để dẫn chúng ta đến với Đức Chúa Trời; về phần xác thịt thì Ngài thật đã chịu chết, nhưng tâm thần thì sống. Bởi tâm thần ấy, Ngài đã đi giảng cho các thần linh ở trong ngục, tức là những kẻ bội nghịch thuở trước, về thời kỳ Nô-ê, khi Đức Chúa Trời nhẫn nại đã có lần chờ đợi cho chiếc tàu được đóng nên, trong đó chỉ có một số ít, là tám linh hồn, được cứu qua nước.” (I Phi-e-rơ 3:18-20).

Môn đồ của Đấng Christ cũng phải học tập theo gương của Đức Chúa Jesus, luôn sống đẹp lòng Đức Chúa Trời, bằng sự vâng giữ Mười Điều Răn của Ngài. Tiếc thay, ngày nay có rất nhiều người xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ, nhưng tin theo sự giảng dạy của các giáo hội mà không vâng giữ điều răn thứ tư trong Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Các giáo hội đưa ra nhiều lời quỷ biện hoàn toàn không có trong Thánh Kinh để bác bỏ sự tôn thánh ngày Thứ Bảy làm ngày Sa-bát của Thiên Chúa. Các lời quỷ biện ấy chính là “các điều răn của loài người” dạy cho người ta bỏ đi điều răn của Đức Chúa Trời.

“Nhưng Ngài đã đáp lời, phán với họ: “Sao các ngươi cũng phạm điều răn của Đức Chúa Trời bởi lời truyền khẩu của các ngươi?”” (Ma-thi-ơ 15:3).

“Nhưng chúng thờ phượng Ta cách vô ích, giảng dạy những giáo lý về các điều răn của loài người.” (Ma-thi-ơ 15:9).

Mác 7:6-9

6 Ngài đã đáp lời, phán với họ: “Hỡi những kẻ giả hình! Ê-sai đã khéo tiên tri về các ngươi, như đã được chép: “Dân này thờ phượng Ta bằng môi, nhưng lòng của chúng cách xa khỏi Ta.

7 Nhưng chúng thờ phượng Ta cách vô ích, giảng dạy những giáo lý về các điều răn của loài người.” [Ê-sai 29:13]

8 Vì các ngươi bác bỏ điều răn của Đức Chúa Trời để giữ lời truyền khẩu của loài người, rửa những nồi và những chén, cùng những việc khác giống như vậy mà các ngươi làm.”

9 Ngài cũng đã phán với họ: “Các ngươi đã khéo bác bỏ điều răn của Đức Chúa Trời để giữ lời truyền khẩu của mình.”

Xin quý ông bà, anh chị em đọc các bài biện giáo về sự con dân Chúa phải vâng giữ điều răn thứ tư, tôn thánh ngày Sa-bát của Thiên Chúa, được liệt kê trên trang “Các Bài Liên Quan Đến Ngày Sa-bát” mà chúng tôi đã đăng trên khu mạng timhieutinlanh.com [1].

Xin nhớ rằng, không một chỗ nào trong Thánh Kinh dạy: Con dân Chúa không cần vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, hoặc con dân Chúa không cần giữ ngày Sa-bát Thứ Bảy, hoặc ngày Sa-bát Thứ Bảy đã đổi sang Chủ Nhật.

Câu hỏi quý ông bà, anh chị em cần đặt ra là: “Nếu tôi vâng giữ trọn vẹn Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời thì điều ấy có làm đẹp lòng Đức Chúa Trời không?” Và xin quý ông bà, anh chị em học thuộc lòng các câu sau đây:

“Các con của người dân ngoại kết hiệp cùng Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để phụng sự Ngài, để yêu danh của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để làm các tôi tớ của Ngài, là tất cả những người giữ ngày Sa-bát không làm ô uế nó, và giữ lời giao ước của Ta, thì Ta sẽ đem họ đến núi thánh của Ta, và làm cho họ được vui mừng trong nhà cầu nguyện của Ta. Các của lễ thiêu và các sinh tế của họ sẽ được nhận lấy trên bàn thờ của Ta; vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.” (Ê-sai 56:6-7).

“Vì này là tình yêu của Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài. Các điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề.” (I Giăng 5:3).

Chúng tôi biết có vẻ như chúng tôi đang nói ngoài đề, nhưng chúng tôi muốn nhân cơ hội này để nhắc quý ông bà, anh chị em về việc “làm những sự đẹp lòng” Đức Chúa Trời như Đức Chúa Jesus đã làm. Vì chúng ta đang sống trong những khoảnh khắc cuối cùng, trước khi Đấng Christ đến để đem chúng ta vào thiên đàng. Chúng ta cần phải giữ mình cho không tì, không vết, không chỗ trách được. Những sự đẹp lòng Đức Chúa Trời chính là vâng giữ các điều răn của Ngài và có đức tin nơi Đấng Christ. Đó chính là điều mà các thánh đồ trong Kỳ Tận Thế sẽ làm (Khải Huyền 12:17; 14:12).

Giăng 8:30-32

30 Khi Ngài phán những lời này, nhiều người đã tin nơi Ngài.

31 Vậy, Đức Chúa Jesus đã phán với những người Do-thái đã tin Ngài: “Nếu các ngươi cứ ở lại trong Lời của Ta, các ngươi thật là những môn đồ của Ta.

32 Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ giải phóng các ngươi.”

“Nhiều người đã tin nơi Ngài” là những người trong đám dân đông, không phải những người Pha-ri-si. Vì về những người Pha-ri-si thì Đức Chúa Jesus đã khẳng định là họ sẽ chết trong những tội lỗi của họ.

Không phải hễ một người tin nơi Đức Chúa Jesus thì trở thành môn đồ của Ngài, nhưng người ấy phải cứ ở lại trong Lời của Ngài. Danh từ “Lời” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có mạo từ xác định đứng trước, được dùng để chỉ giáo lý của Đức Chúa Jesus, tức mọi lời phán dạy của Ngài.

“Cứ ở lại trong Lời của Ta” là cứ tiếp tục tin và sống theo mọi lời phán dạy của Đức Chúa Jesus.

Khi một người tiếp tục tin và sống theo mọi lời dạy của Đức Chúa Jesus thì người ấy sẽ biết lẽ thật, tức là biết những gì Đức Chúa Trời muốn phán dạy loài người. Một người được biết lẽ thật từ Đức Chúa Trời thì đương nhiên người ấy thoát khỏi sự nô lệ của tội lỗi, nhờ tin vào ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Người ấy cũng thoát khỏi sự làm nô lệ cho tội lỗi vì có thể thắng được mọi sự cám dỗ bằng sức toàn năng của Thiên Chúa. Người biết lẽ thật còn thoát khỏi sự nô lệ cho mọi mê tín dị đoan, mọi tà giáo được rao giảng bởi những giáo sư giả và tiên tri giả. Nói cách ngắn gọn, sự biết lẽ thật khiến cho một người thoát khỏi sự nô lệ cho mọi lẽ giả.

Giăng 8:33-34

33 Họ đã đáp lời Ngài: “Chúng tôi là dòng dõi của Áp-ra-ham, chưa hề là nô lệ của ai. Sao Ngài nói, các ngươi sẽ trở nên tự do?”

34 Đức Chúa Jesus đã đáp lời họ: “Thật sự! Thật sự! Ta bảo các ngươi. Ai làm ra tội lỗi là nô lệ của tội lỗi.

Có lẽ những người Pha-ri-si đứng trước đám dân đông đã truy vấn Đức Chúa Jesus về lời phán của Ngài. Họ không hiểu lời phán của Ngài về sự biết lẽ thật và sự nô lệ. Tuy nhiên, lời công bố của họ: “Chúng tôi là dòng dõi của Áp-ra-ham, chưa hề là nô lệ của ai” là không đúng sự thật. Vì trước hết, dòng dõi của Áp-ra-ham đã làm nô lệ 400 năm cho dân Ê-díp-tô. Sau đó, trong thời Các Quan Xét, dân I-sơ-ra-ên còn từng hồi, từng lúc bị làm nô lệ cho các dân: Phi-li-tin, Mô-áp, Am-môn. Sau đó, họ lần lượt bị làm nô lệ cho các đế quốc: A-si-ri, Ba-bi-lôn, Phe-rơ-sơ, và Hy-lạp. Ngay vào lúc họ đang nói lời ấy thì dân I-sơ-ra-ên đang bị dân La-mã thống trị.

Đức Chúa Jesus đã nói rõ cho họ biết, người nào phạm tội thì người ấy là nô lệ cho tội lỗi. Vì sau khi phạm tội thì một người cứ tiếp tục phạm tội, không thể chống lại sự thôi thúc của tội lỗi.

Giăng 8:35-36

35 Nô lệ không cứ ở lại trong nhà cho tới vĩnh cửu nhưng Đức Con cứ ở lại cho tới vĩnh cửu.

36 Vậy, nếu Đức Con giải phóng các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do.

Danh từ “nô lệ” trong câu 35 không nói về nô lệ cho tội lỗi, nhưng nói về nô lệ phục vụ trong nhà của chủ. Trong câu nói này của Đức Chúa Jesus, danh từ “nô lệ” được dùng để chỉ cho tất cả những ai được Đức Chúa Trời dùng cho công việc của Ngài, nhưng họ không có đặc quyền làm con của Ngài. Điển hình là Vua Nê-bu-cát-nết-xa, Vua Si-ru (Giê-rê-mi 27:6; Ê-sai 45:1), và phần lớn trong dân I-sơ-ra-ên.

Danh từ “nhà” trong câu 35 hàm ý, Vương Quốc của Đức Chúa Trời.

Danh từ “Đức Con” trong câu 35 chỉ về Đức Chúa Jesus, nhưng cũng hàm ý, chỉ về bất cứ ai được Đức Chúa Trời ban cho quyền làm con của Ngài.

Danh từ “Đức Con” trong câu 36 chỉ riêng về Đức Chúa Jesus, Đấng duy nhất có quyền giải cứu loài người ra khỏi sự nô lệ cho tội lỗi, bởi sự chết chuộc tội của Ngài.

Tất cả những ai được làm “nô lệ”, tức là tôi tớ, của Đức Chúa Trời đều phải chọn hoàn toàn tin nơi Ngài và vâng phục Ngài để được Ngài ban cho quyền làm con của Ngài. Trong Thời Kỳ Tân Ước, sự hoàn toàn tin và vâng phục Đức Chúa Trời thể hiện bằng sự thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đấng Christ. Những ai thật lòng ăn năn tội thì xa lánh mọi sự ô uế, tội lỗi, và vâng giữ trọn vẹn Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Chính Đức Thánh Linh ban cho họ sức toàn năng của Thiên Chúa để họ đắc thắng mọi cám dỗ, sống theo Lời Chúa, giữ trọn các điều răn của Thiên Chúa. Họ được Đức Chúa Trời gọi họ là “những con trai và những con gái” của Ngài:

“Bởi vậy, Chúa phán: Các ngươi hãy ra khỏi giữa chúng nó và các ngươi hãy phân rẽ; các ngươi cũng đừng đụng đến đồ ô uế. Thì Ta sẽ tiếp nhận các ngươi. Ta sẽ làm Cha cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm những con trai và những con gái cho Ta. Chúa Toàn Năng phán.” (II Cô-rinh-tô 6:17-18).

Chỉ có những ai là con trai và con gái của Đức Chúa Trời thì mới được đời đời ở trong vương quốc của Ngài.

Chúng ta tạm kết thúc tại đây và sẽ tiếp tục trong bài kế tiếp.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
23/11/2024

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

[1] https://timhieutinlanh.com/cac-bai-lien-quan-den-ngay-sa-bat/

Karaoke Thánh Ca: “Lòng Con Khiêm Nhu Tôn Kính”
https://karaokethanhca.net/long-con-khiem-nhu-ton-kinh/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.

Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.