YouTube: https://youtu.be/ToUUavJZ0Zc
Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL088 Đức Chúa Jesus Làm Chứng về Mình – Phần 2
Giăng 8:37-59
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
- SoundCloud: Bấm vào đây
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
Kho chứa MP3 các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Kho chứa pdf các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Giăng 8:37-59
37 Ta biết rằng, các ngươi là dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng các ngươi tìm cách giết Ta, vì Lời của Ta không có chỗ trong các ngươi.
38 Ta nói điều Ta đã thấy nơi Cha của Ta; còn các ngươi làm theo điều các ngươi đã thấy nơi cha của các ngươi.”
39 Họ đã đáp lời và thưa với Ngài: “Áp-ra-ham là cha của chúng tôi.” Đức Chúa Jesus bảo họ: “Nếu các ngươi là con cháu của Áp-ra-ham, các ngươi sẽ làm những việc của Áp-ra-ham.
40 Nhưng hiện nay, các ngươi tìm cách giết Ta, người đã nói lẽ thật cho các ngươi, mà Ta đã nghe từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham đã không làm như vậy.
41 Các ngươi làm những việc của cha các ngươi.” Vậy, họ đã nói với Ngài: “Chúng tôi chẳng được sinh ra bởi sự tà dâm. Chúng tôi có một Cha, là Đức Chúa Trời.”
42 Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Nếu Đức Chúa Trời đã là Cha của các ngươi, các ngươi sẽ yêu Ta, vì Ta đã ra và đã đến từ Đức Chúa Trời. Vì Ta đã chẳng tự mình đến nhưng Ngài đã sai Ta.
43 Sao các ngươi không hiểu sự diễn thuyết của Ta? Bởi các ngươi chẳng có thể nghe Lời của Ta.
44 Các ngươi là từ cha Ma Quỷ của các ngươi. Các ngươi sẽ làm theo những sự tham muốn của cha các ngươi. Nó đã là kẻ giết người từ lúc ban đầu; chẳng đứng vững trong lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó. Khi nó nói dối, nó nói bởi chính nó, vì nó là kẻ nói dối và là cha của sự ấy.
45 Vì Ta nói lẽ thật, các ngươi không tin Ta.
46 Ai trong các ngươi kết tội Ta được? Nếu Ta nói lẽ thật, sao các ngươi không tin Ta?
47 Người ra từ Đức Chúa Trời nghe những lời của Đức Chúa Trời. Bởi đó, các ngươi không nghe vì các ngươi không ra từ Đức Chúa Trời.”
48 Vậy, những người Do-thái đã đáp lời, bảo Ngài: “Chúng tôi nói không đúng sao? Ngươi là người Sa-ma-ri và có quỷ.”
49 Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Ta chẳng có quỷ nhưng Ta tôn kính Cha của Ta, còn các ngươi làm nhục Ta.
50 Ta chẳng tìm sự vinh quang của Ta. Có một Đấng tìm và phán xét.
51 Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, nếu ai giữ Lời của Ta, người ấy sẽ không bao giờ thấy sự chết.”
52 Vậy, những người Do-thái đã nói với Ngài: “Bây giờ, chúng tôi biết rằng, ngươi có quỷ. Áp-ra-ham đã chết, các đấng tiên tri cũng vậy, mà ngươi nói: “Nếu ai giữ Lời của Ta, người ấy sẽ không bao giờ nếm sự chết.”
53 Ngươi lớn hơn cha của chúng ta, Áp-ra-ham, là người đã chết sao? Các đấng tiên tri cũng đã chết. Ngươi làm ra mình là ai?”
54 Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Nếu Ta tôn vinh chính mình, sự vinh quang của Ta chẳng ra gì. Ấy là Cha của Ta làm vinh hiển Ta. Đấng các ngươi xưng rằng, Ngài là Thiên Chúa của các ngươi.
55 Nhưng các ngươi chẳng biết Ngài. Còn Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, Ta sẽ là kẻ nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và giữ Lời của Ngài.
56 Áp-ra-ham, tổ phụ của các ngươi, đã mừng rỡ được nhìn thấy ngày của Ta. Người đã thấy và đã vui mừng.
57 Vậy, những người Do-thái đã nói với Ngài: “Ngươi chưa được năm mươi tuổi mà ngươi đã thấy Áp-ra-ham?”
58 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, trước khi đã có Áp-ra-ham, Ta Là!” [Có nghĩa: Ta Tự Hữu Hằng Hữu! Xem chú thích ở câu 24.]
59 Bấy giờ, họ đã nhặt đá để ném vào Ngài. Nhưng Đức Chúa Jesus đã ẩn mình. Ngài đã đi khỏi Đền Thờ, đi ngang qua giữa họ, và Ngài đã qua khỏi như vậy.
Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục học về các lời Đức Chúa Jesus tự làm chứng về mình và các lời Ngài quở trách những người I-sơ-ra-ên không có lòng vâng phục Đức Chúa Trời.
Giăng 8:37-38
37 Ta biết rằng, các ngươi là dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng các ngươi tìm cách giết Ta, vì Lời của Ta không có chỗ trong các ngươi.
38 Ta nói điều Ta đã thấy nơi Cha của Ta; còn các ngươi làm theo điều các ngươi đã thấy nơi cha của các ngươi.”
Đức Chúa Jesus xác nhận những người Pha-ri-si là dòng dõi của Áp-ra-ham, nhưng Ngài cũng khẳng định là Ngài biết họ tìm cách giết Ngài, vì họ không tiếp nhận sự giảng dạy của Ngài. Họ là những kẻ sống trong sự tối tăm nhưng không chịu tiếp nhận sự sáng. Họ là những kẻ sẽ không bao giờ ăn năn và sẽ chết trong tội lỗi của họ.
Động từ “thấy” trong câu 38 có nghĩa đen là nhìn thấy bằng con mắt xác thịt; có nghĩa bóng là sự nhận thức trong tâm trí. Mọi lời phán dạy của Đức Chúa Jesus đều là sự Ngài nhận thức nơi Đức Chúa Trời, mà Ngài gọi là “Cha” vì Đức Chúa Trời đã sinh ra thân thể xác thịt của Ngài.
Xét về thuộc linh, những người Pha-ri-si đang trò chuyện với Đức Chúa Jesus là những kẻ thuộc về dòng dõi của Ma Quỷ, vì họ làm theo những gì họ nhận thức nơi Ma Quỷ. Danh từ Ma Quỷ được viết hoa, vì trong nguyên ngữ Hy-lạp nó có mạo từ xác định đứng trước và được dùng với hình thức số ít để chỉ về Sa-tan.
Giăng 8:39
39 Họ đã đáp lời và thưa với Ngài: “Áp-ra-ham là cha của chúng tôi.” Đức Chúa Jesus bảo họ: “Nếu các ngươi là con cháu của Áp-ra-ham, các ngươi sẽ làm những việc của Áp-ra-ham.
Những người Pha-ri-si vẫn nói đến sự kiện họ là con cháu của Áp-ra-ham, trên phương diện huyết thống. Họ không hiểu rằng, Đức Chúa Jesus nói về sự quan hệ thuộc linh. Áp-ra-ham là người được chính Đức Chúa Trời làm chứng rằng: “Áp-ra-ham đã vâng theo tiếng Ta, đã giữ gìn sự quy định của Ta: các điều răn của Ta, các luật lệ của Ta, các luật pháp của Ta” (Sáng Thế Ký 26:5). Vì thế, con cháu thật của Áp-ra-ham cũng phải là những người vâng giữ các điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô, đã khẳng định:
“Và nếu các anh chị em thuộc về Đấng Christ, thì các anh chị em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là những người kế tự theo lời hứa.” (Ga-la-ti 3:29).
“Làm những việc của Áp-ra-ham” là có đức tin nơi Đức Chúa Trời, như Áp-ra-ham có và thể hiện đức tin thành hành động trong cuộc sống. Mỗi một việc làm đều không nghịch lại các điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô đã tóm gọn như sau:
“Vậy, cho dù các anh chị em ăn hay uống, hay làm sự gì khác, hãy làm mọi sự vì sự vinh quang của Thiên Chúa.” (I Cô-rinh-tô 10:31).
“Làm mọi sự vì sự vinh quang của Thiên Chúa” có nghĩa là từ mỗi một ý nghĩ cho đến mỗi một lời nói và mỗi một việc làm cũng đều thể hiện tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thực tế, khi một người vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus, và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh thì người ấy sống một nếp sống thể hiện sự vinh quang của Thiên Chúa. Người ấy không vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa để được cứu, nhưng vì người ấy đã được cứu khỏi hình phạt dành cho những ai không vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời nên người ấy không tái phạm. Rõ ràng, một người được cứu khỏi án phạt vì vi phạm các điều răn của Đức Chúa Trời thì không thể nào nói rằng, vì tôi đã được cứu nên các điều răn không còn áp dụng cho tôi. Trái lại, người đã được cứu sẽ vô cùng cẩn thận để không tái phạm bất cứ một điều răn nào. Người ấy hiểu và yêu quý các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa. Vì “luật pháp là thánh, điều răn là thánh, công chính, và tốt lành” (Rô-ma 7:12). Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Giăng đã khẳng định:
“Chúng ta biết mình yêu con cái của Đức Chúa Trời, khi chúng ta yêu Đức Chúa Trời và giữ các điều răn của Ngài. Vì này là tình yêu của Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài. Các điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề.” (I Giăng 5:2-3).
Chúng tôi xin phép nói ra ngoài bài học một chút. Rất nhiều giáo hội mang danh Chúa ngày nay dạy rằng: “Con dân Chúa trong Hội Thánh của thời Tân Ước thì không cần vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Vì họ không ở dưới luật pháp mà ở dưới ân điển.” Đó là sự giảng dạy tà giáo. Đó là giáo lý của Sa-tan.
“Không ở dưới luật pháp” có nghĩa là không bị hình phạt bởi luật pháp về những sự vi phạm các điều răn của Đức Chúa Trời, nhờ có đức tin nơi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. “Không ở dưới luật pháp” không có nghĩa là tha hồ vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh đã dạy rõ:
Hê-bơ-rơ 6:4-8
4 Vì không thể nào những người đã một lần được soi sáng, đã nếm sự ban cho từ trên trời, được trở nên những người dự phần về thánh linh,
5 đã nếm Lời phán lành của Thiên Chúa và những năng lực của đời sau,
6 rồi họ lại sa ngã, mà được phục hồi vào trong sự ăn năn. Vì họ đang đóng đinh Con của Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình lần nữa và họ công khai sỉ nhục Ngài.
7 Vì đất thấm nhuần mưa thường xuyên đến trên nó mà sinh ra cây cỏ, có ích cho họ, những người cày xới nó, thì nhận phước từ Đức Chúa Trời.
8 Nhưng nếu nó sinh ra những cây gai và những cây tật lê, thì bị bỏ và gần sự nguyền rủa. Sự cuối cùng của nó là vào trong sự thiêu đốt.
Hê-bơ-rơ 10:26-29
26 Vì nếu chúng ta cố ý phạm tội, sau khi đã nhận lãnh tri thức về lẽ thật, thì không còn được chừa lại cho chúng ta sinh tế chuộc những tội lỗi.
27 Nhưng chỉ có một sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ thiêu nuốt những kẻ bội nghịch.
28 Ai đã chối bỏ luật pháp của Môi-se, thì chết không có sự thương xót, bởi hai hay ba chứng nhân.
29 Các anh chị em nghĩ xem, hình phạt sẽ nặng hơn biết bao để xứng với kẻ giày đạp Con Đức Chúa Trời, xem máu của giao ước mà bởi đó kẻ ấy được nên thánh là ô uế, và sỉ nhục Đấng Thần Linh của ân điển.
“Ở dưới ân điển” là ở trong sự được tha thứ mọi tội lỗi nhờ có lòng ăn năn tội và có đức tin vào sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Điều kiện đầu tiên để được ở dưới ân điển là có lòng ăn năn, sám hối về những sự vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Lời rao giảng Tin Lành của Đức Chúa Jesus bắt đầu bằng lời kêu gọi, “Hãy ăn năn!” Sự ở dưới ân điển hoàn toàn không có nghĩa là tha hồ vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời mà không bị hình phạt.
Điều quan trọng là trong Tân Ước không hề có một chỗ nào dạy rằng, con dân Chúa trong Hội Thánh không cần vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Cũng không một chỗ nào trong Tân Ước dạy rằng, con dân Chúa không cần vâng giữ ngày Sa-bát của Thiên Chúa. Và chắc chắn là không một chỗ nào trong Tân Ước dạy rằng, ngày Sa-bát đã đổi từ Thứ Bảy sang Chủ Nhật. Giáo lý dạy rằng, Đức Chúa Jesus đã chết vào ngày Thứ Sáu và đã phục sinh vào sáng Chủ Nhật cũng là tà giáo. Vì theo Lời Chúa đối chiếu với các dữ liệu lịch sử thì Đức Chúa Jesus đã chết vào chiều Thứ Tư và sống lại vào chiều Thứ Bảy. Xin quý ông bà, anh chị em đọc bài “Ngày Chúa Chết và Ngày Chúa Phục Sinh” [1].
Giăng 8:40-42
40 Nhưng hiện nay, các ngươi tìm cách giết Ta, người đã nói lẽ thật cho các ngươi, mà Ta đã nghe từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham đã không làm như vậy.
41 Các ngươi làm những việc của cha các ngươi.” Vậy, họ đã nói với Ngài: “Chúng tôi chẳng được sinh ra bởi sự tà dâm. Chúng tôi có một Cha, là Đức Chúa Trời.”
42 Đức Chúa Jesus đã bảo họ: “Nếu Đức Chúa Trời đã là Cha của các ngươi, các ngươi sẽ yêu Ta, vì Ta đã ra và đã đến từ Đức Chúa Trời. Vì Ta đã chẳng tự mình đến nhưng Ngài đã sai Ta.
Đức Chúa Jesus đã nói thẳng với những người Pha-ri-si điều Ngài biết về họ. Đó là họ có âm mưu bắt giết Ngài. Ngài là Đấng rao giảng lẽ thật của Đức Chúa Trời cho họ mà họ muốn bắt giết Ngài, thì họ không phải là con cháu của Áp-ra-ham, trên phương diện thuộc linh.
Một lần nữa, Đức Chúa Jesus khẳng định, lẽ thật mà Ngài rao giảng là Ngài đã nghe từ Đức Chúa Trời. Chúng tôi nghĩ rằng, trong khoảng thời gian 40 ngày và 40 đêm Đức Chúa Jesus kiêng ăn, cầu nguyện trong đồng vắng, ngay sau khi Ngài chịu báp-tem vào trong chức vụ của Đấng Christ, thì Đức Chúa Trời đã phán dạy cho Ngài mọi lẽ thật. Chúng tôi hiểu rằng, vì Thiên Chúa Ngôi Lời tự bỏ đi thể trạng Thiên Chúa để mang lấy thể trạng loài người nên trong thân thể xác thịt loài người Ngài đã không có sự toàn năng, toàn tri của Thiên Chúa. Ngài hoàn toàn là một người nhưng là một người không phạm tội. Mọi phép lạ Ngài làm đều do Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh ban thánh linh cho Ngài.
“Áp-ra-ham đã không làm như vậy” có nghĩa là Áp-ra-ham đã không có tấm lòng gian trá, độc ác, muốn giết người như những người Pha-ri-si đang trò chuyện với Đức Chúa Jesus. Chính vì “Áp-ra-ham đã không làm như vậy” nên việc làm của những người Pha-ri-si không giống những việc của Áp-ra-ham. Vậy, những người Pha-ri-si ấy không phải là con cháu thật của Áp-ra-ham mà họ là con cháu của một kẻ gian trá, độc ác như họ.
Những người Pha-ri-si hiểu rằng, Đức Chúa Jesus không công nhận họ là con cháu của Áp-ra-ham theo nghĩa thuộc linh. Vì thế, họ đã lên tiếng, lý luận với Ngài. Lý lẽ thứ nhất họ đưa ra là “Chúng tôi chẳng được sinh ra bởi sự tà dâm”. Lý lẽ thứ nhì họ đưa ra là “Chúng tôi có một Cha, là Đức Chúa Trời”.
“Chẳng được sinh ra bởi sự tà dâm” có nghĩa là họ được sinh ra bởi cha mẹ trong mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, giữa những con cháu của 12 chi phái I-sơ-ra-ên, là những người vâng giữ sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ không phải được sinh ra từ các mối quan hệ tình dục bất chính, cũng không được sinh ra bởi những người thờ lạy hình tượng, tà thần.
“Có một Cha, là Đức Chúa Trời” có nghĩa là họ chỉ có một Cha thuộc linh duy nhất là Đức Chúa Trời. Vì họ chỉ thờ phượng Đức Chúa Trời, không thờ phượng ai khác.
Tuy nhiên, nếu họ thật sự có Đức Chúa Trời là Cha thì họ phải nhận biết Đức Chúa Jesus. Vì Đức Chúa Jesus chính là Con của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời sai vào trong thế gian làm Đấng Christ. Ngay lúc ấy, có nhiều người trong đám đông đã tin Đức Chúa Jesus. Những người ấy thật sự có lòng tin kính Đức Chúa Trời nên được Đấng Thần Linh giúp cho họ hiểu và tin Đức Chúa Jesus.
Ngày nay, khắp thế gian có khoảng 2,4 tỉ người xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ, gọi Đức Chúa Trời là “Cha”. Nhưng thực tế có bao nhiêu người thật sự là con trai và con gái của Đức Chúa Trời, hết lòng yêu kính Ngài, vâng giữ các điều răn của Ngài?
Giăng 8:43-44
43 Sao các ngươi không hiểu sự diễn thuyết của Ta? Bởi các ngươi chẳng có thể nghe Lời của Ta.
44 Các ngươi là từ cha Ma Quỷ của các ngươi. Các ngươi sẽ làm theo những sự tham muốn của cha các ngươi. Nó đã là kẻ giết người từ lúc ban đầu; chẳng đứng vững trong lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó. Khi nó nói dối, nó nói bởi chính nó, vì nó là kẻ nói dối và là cha của sự ấy.
Câu hỏi Đức Chúa Jesus dành cho những người Pha-ri-si vào thời ấy cũng chính là câu hỏi dành cho tất cả những ai xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ ngày nay. Sao xưng nhận mình là môn đồ của Đấng Christ mà không hiểu sự phán dạy của Ngài? Chỉ có một lý do duy nhất, là “chẳng có thể nghe Lời” của Ngài. Vì sự cứng lòng, ham thích tội lỗi, nghe theo tà giáo. Vì sự kiêu ngạo, muốn được trọng vọng trong các tổ chức giáo hội.
Đức Chúa Jesus đã gọi thẳng những người Pha-ri-si đang trò chuyện với Ngài là con cháu của Ma Quỷ. Danh từ Ma Quỷ được viết hoa vì trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh nó có mạo từ xác định đi kèm và có hình thức số ít, được dùng để chỉ Sa-tan.
Mọi việc làm không đúng với các điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời đều là làm theo sự tham muốn của Sa-tan. Vì Sa-tan là kẻ đứng đầu trong sự chống nghịch Thiên Chúa nên mọi sự chống nghịch Thiên Chúa đều là theo sự tham muốn của Sa-tan. Sa-tan đã lừa dối A-đam và Ê-va, thủy tổ của loài người, khiến cho họ phạm tội và gánh lấy hình phạt của sự phạm tội là sự chết. Vì thế, Sa-tan là kẻ nói dối và giết người đầu tiên. Sa-tan được gọi là cha của sự nói dối vì chính Sa-tan đã nói dối để dẫn dụ nhiều thiên sứ và loài người phạm tội, chống nghịch Thiên Chúa.
Trong Sa-tan không có lẽ thật cho nên, Sa-tan đã không sống theo lẽ thật. Sa-tan vốn là một thiên sứ trưởng do Đức Chúa Trời dựng nên cách tốt lành; nhưng có lẽ sự kiêu ngạo quá mức đã khiến cho Sa-tan trở thành gian trá để lôi kéo nhiều thiên sứ đứng về phía nó, trong mưu toan lật đổ quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Sự sa ngã của Sa-tan là một huyền nhiệm mà có lẽ khi chúng ta vào trong thiên đàng thì mới hiểu rõ được.
Chính vì Sa-tan là cha của sự nói dối, cho nên, khi một người nói dối thì người ấy tự đặt mình vào địa vị làm con cái của Sa-tan. Tội nói dối rất nghiêm trọng, vì án phạt của những kẻ nói dối là sự chịu khổ đời đời trong hỏa ngục.
“Còn những kẻ hèn nhát, những kẻ không tin, những kẻ đáng gớm ghiếc, những kẻ giết người, những đĩ đực, những kẻ phù phép, những kẻ thờ thần tượng, và hết thảy những kẻ nói dối, phần của chúng trong hồ đốt với lửa và lưu huỳnh. Đó là sự chết thứ nhì.” (Khải Huyền 21:8).
Con dân Chúa mà nói dối là tự mở đường cho Sa-tan nắm giữ mình và kéo mình ra khỏi sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Con dân Chúa phải tập thói quen sợ sự nói dối như sợ lửa của hỏa ngục; và cầu xin Đức Chúa Trời giữ mình khỏi sự phạm tội nói dối. Con dân Chúa khi lỡ phạm bất cứ tội gì thì phải lập tức xưng tội với Chúa và xin Chúa tha thứ cho mình, làm sạch mình, giúp mình không tái phạm. Con dân Chúa cần học thuộc lòng I Giăng 1:9 để phản bác sự kiện cáo của Sa-tan, khi mình lỡ phạm tội.
Giăng 8:45-47
45 Vì Ta nói lẽ thật, các ngươi không tin Ta.
46 Ai trong các ngươi kết tội Ta được? Nếu Ta nói lẽ thật, sao các ngươi không tin Ta?
47 Người ra từ Đức Chúa Trời nghe những lời của Đức Chúa Trời. Bởi đó, các ngươi không nghe vì các ngươi không ra từ Đức Chúa Trời.”
Lẽ thật mà Đức Chúa Jesus đã nói với những người Pha-ri-si là: Ngài là sự sáng của thế gian, là ánh sáng của sự sống cho những ai theo Ngài (Giăng 8:12). Có nghĩa Ngài là Đấng Christ, tức Đấng Mê-si-a đã được hứa trong Thánh Kinh. Nhưng những người Pha-ri-si đã không tin Ngài. Có lẽ vì theo họ, Ngài chỉ là con trai của một người thợ mộc bình thường ở Na-xa-rét, không từng theo học một giáo sư Do-thái Giáo nào.
Câu hỏi của Đức Chúa Jesus: “Ai trong các ngươi kết tội Ta được?” cũng chính là lời tuyên xưng Ngài hoàn toàn vô tội. Vì thế, mọi lời phán dạy của Ngài đều là lẽ thật. Tuy nhiên, chỉ những ai thật lòng tin kính Đức Chúa Trời mới nhận biết rằng, mọi lời phán dạy của Đức Chúa Jesus là ra từ Đức Chúa Trời. Chính Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh ban cho họ sự nhận thức ấy.
“Người ra từ Đức Chúa Trời” là người thật lòng tin kính Đức Chúa Trời, được Đấng Thần Linh ban cho sự thông sáng để hiểu biết khi nghe sự rao giảng về Lời của Đức Chúa Trời. Đấng Thần Linh cũng ban cho người ấy sự khôn sáng để biết cách áp dụng lẽ thật của Lời Chúa vào đời sống.
Người “không ra từ Đức Chúa Trời” có thể là người xưng nhận mình tin kính Đức Chúa Trời nhưng chỉ là sự xưng nhận trên môi miệng, còn lòng người ấy thì cách xa Ngài. Vì người ấy vâng giữ các điều răn của loài người thay vì vâng giữ các điều răn của Ngài đã được chép rõ ràng trong Thánh Kinh.
“Dân này đến gần Ta với miệng của chúng và tôn kính Ta với môi của chúng; mà lòng của chúng thì xa cách Ta! Nhưng chúng thờ phượng Ta cách vô ích, giảng dạy những giáo lý về các điều răn của loài người.” (Ma-thi-ơ 15:8-9).
Phần lớn những người thuộc các giáo hội mang danh Chúa là những người “không ra từ Đức Chúa Trời”. Nếp sống của họ không làm tôn vinh Thiên Chúa vì không vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, không thể hiện tình yêu, sự thánh khiết, và sự công chính của Thiên Chúa.
Giăng 8:48
48 Vậy, những người Do-thái đã đáp lời, bảo Ngài: “Chúng tôi nói không đúng sao? Ngươi là người Sa-ma-ri và có quỷ.”
Một lần nữa, Sứ Đồ Giăng dùng cách gọi “những người Do-thái” để gọi những người Pha-ri-si, nhấn mạnh sự kiện, họ vốn thuộc về tuyển dân của Đức Chúa Trời. Thế nhưng họ đã không giữ mình ở lại trong sự được Đức Chúa Trời lựa chọn. Họ đã biến đức tin nơi Đức Chúa Trời thành một hệ thống tôn giáo với nhiều giáo điều do họ đặt ra, bỏ đi các điều răn của Đức Chúa Trời. Hệ thống tôn giáo đó chính là Do-thái Giáo, được hình thành trong khoảng thời gian chừng 400 năm Đức Chúa Trời im lặng với dân I-sơ-ra-ên. Lý do Đức Chúa Trời im lặng với dân I-sơ-ra-ên là vì sau khi họ mãn hạn phu tù tại Ba-bi-lôn, được trở về Giê-ru-sa-lem, thì họ vẫn sống trong tội. Tiên Tri Ma-la-chi đã ghi rõ sự sống trong tội của họ.
Những người Pha-ri-si đã nhiều lần nói, Đức Chúa Jesus có quỷ hoặc dùng năng lực của quỷ để chữa bệnh, đuổi quỷ. Nhưng đây là lần đầu tiên và lần duy nhất được Thánh Kinh ghi lại, họ gọi Ngài là người Sa-ma-ri. Khi họ gọi Ngài là người Sa-ma-ri thì họ có ý lăng nhục Ngài, vu khống sự giảng dạy của Ngài là không đúng lẽ thật, và phủ nhận chức vụ Đấng Christ của Ngài.
Người Sa-ma-ri là những người I-sơ-ra-ên lai với các dân ngoại. Họ bị dân I-sơ-ra-ên chính gốc xem khinh, tránh giao tiếp. Vào thời bấy giờ, khi dân I-sơ-ra-ên nói người nào là người Sa-ma-ri chính là muốn sỉ nhục người đó. Người Sa-ma-ri cũng thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng không tại Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem, mà là trên Núi Ga-ri-xim. Họ có một hệ thống tôn giáo khác biệt với Do-thái Giáo. Vì thế, dân I-sơ-ra-ên xem những sự giảng dạy và thờ phượng Đức Chúa Trời của dân Sa-ma-ri là không đúng lẽ thật. Gọi Đức Chúa Jesus là người Sa-ma-ri có nghĩa là vu khống sự giảng dạy của Ngài là sự giảng dạy theo Sa-ma-ri Giáo; một tôn giáo thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng chỉ tin vào Ngũ Kinh, tức là năm sách đầu tiên, mà không tin vào các sách còn lại trong Thánh Kinh Cựu Ước. Và như vậy, khi gọi Đức Chúa Jesus là người Sa-ma-ri thì cũng cùng lúc phủ nhận Ngài là Đấng Christ. Vì Đấng Christ phải ra từ dòng Đa-vít, thuần chủng I-sơ-ra-ên; và sự đến của Đấng Christ đã được tiên tri trong các sách tiên tri.
Giăng 8:49-51
49 Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Ta chẳng có quỷ nhưng Ta tôn kính Cha của Ta, còn các ngươi làm nhục Ta.
50 Ta chẳng tìm sự vinh quang của Ta. Có một Đấng tìm và phán xét.
51 Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, nếu ai giữ Lời của Ta, người ấy sẽ không bao giờ thấy sự chết.”
Đức Chúa Jesus đã nói thẳng cho những người Pha-ri-si biết, họ đang vu khống Ngài có quỷ; và Ngài hiểu là họ đang làm nhục Ngài. Ngài cũng nói cho họ biết, Ngài không tìm kiếm sự vinh quang cho chính mình. Lời ấy có nghĩa là mọi sự Ngài nói và Ngài làm là Ngài thi hành bổn phận do Đức Chúa Trời giao phó cho Ngài. Bổn phận ấy là giãi bày thánh ý của Đức Chúa Trời cho loài người và hoàn thành ơn cứu rỗi loài người, qua dân I-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời là Đấng tìm kiếm sự vinh quang cho Đức Chúa Jesus và cũng là Đấng phán xét những ai xúc phạm Đức Chúa Jesus.
Vì Đức Chúa Jesus là sự sáng của thế gian, ánh sáng của sự sống, cho nên, bất cứ ai tin Ngài, vâng giữ sự phán dạy của Ngài thì “người ấy sẽ không bao giờ thấy sự chết.” Vì mọi sự phạm tội của người ấy được Đức Chúa Trời tha thứ. Bản tính hay phạm tội của người ấy được Đức Chúa Jesus rửa sạch. Đức Thánh Linh ban thánh linh là sức sống và năng lực của Thiên Chúa cho người ấy để người ấy sống nếp sống thánh khiết, không phạm tội.
“Sự chết” được nói đến ở đây là sự chịu khổ đời đời trong hỏa ngục, hình phạt của sự phạm các điều răn của Đức Chúa Trời, khác với sự chết tạm thời của thân thể xác thịt. Trong sách Khải Huyền gọi đó là “sự chết thứ nhì”.
“Không bao giờ thấy sự chết” là không bao giờ trải qua sự chết thứ nhì, nên không nhìn thấy, mình chịu khổ trong hỏa ngục bởi sự chết thứ nhì.
Giăng 8:52-53
52 Vậy, những người Do-thái đã nói với Ngài: “Bây giờ, chúng tôi biết rằng, ngươi có quỷ. Áp-ra-ham đã chết, các đấng tiên tri cũng vậy, mà ngươi nói: “Nếu ai giữ Lời của Ta, người ấy sẽ không bao giờ nếm sự chết.”
53 Ngươi lớn hơn cha của chúng ta, Áp-ra-ham, là người đã chết sao? Các đấng tiên tri cũng đã chết. Ngươi làm ra mình là ai?”
Một lần nữa, Sứ Đồ Giăng dùng cách gọi “những người Do-thái” để gọi những người Pha-ri-si. Họ tự hào là tuyển dân của Đức Chúa Trời, được Ngài ban cho Lời của Ngài là Thánh Kinh mà họ đã không thể hiểu được sự sâu nhiệm trong các lời phán của Đức Chúa Jesus. Họ chỉ hiểu theo nghĩa đen của chữ nghĩa. Họ tưởng rằng, Đức Chúa Jesus đang nói về sự chết thứ nhất, tức là sự chết tạm thời của thân thể xác thịt. Vì thế, họ nhắc lại sự chết thuộc thể của Áp-ra-ham, của các tiên tri, và dùng đó để bắt bẻ Ngài. Trong tâm trí của họ, Áp-ra-ham và các tiên tri là các tôi tớ lớn của Đức Chúa Trời mà cũng đều đã chết, thì Đức Chúa Jesus là ai mà dám tự cho rằng, bất cứ ai giữ sự phán dạy của Ngài thì sẽ không bao giờ chết. Có lẽ những người Pha-ri-si đang trò chuyện với Đức Chúa Jesus đã không nhớ Thánh Kinh đã ghi rõ, Hê-nóc và Tiên Tri Ê-li không trải qua sự chết của thân thể xác thịt.
Về sau, Đức Chúa Jesus đã phán dạy với Ma-thê, em gái của La-xa-rơ: “Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin nơi Ta, dù người ấy đã chết, người ấy sẽ sống. Còn bất cứ ai sống và tin nơi Ta thì cho tới vĩnh cửu sẽ không chết. Ngươi tin điều đó chăng?” (Giăng 11:25-26).
“Người ấy đã chết” là nói về sự chết thuộc thể và sự chết thuộc linh, hậu quả của sự phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Sự chết thuộc thể là sự linh hồn và tâm thần phân rẽ khỏi thân thể xác thịt, thân thể xác thịt trở về với bụi đất, tâm thần trở về với Đức Chúa Trời, linh hồn bị tạm giam trong âm phủ. Sự chết thuộc linh là sự linh hồn, tâm thần, và thân thể xác thịt bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa, khi thân thể xác thịt còn sống. Sau sự phán xét chung cuộc thì linh hồn và thân thể xác thịt đã sống lại sẽ bị đời đời phân rẽ khỏi Thiên Chúa.
“Người ấy sẽ sống” là nói về sự sống lại của thân thể xác thịt trong vinh quang; và linh hồn, tâm thần, cùng thân thể xác thịt đã phục sinh sẽ không bao giờ bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa.
“Còn bất cứ ai sống và tin nơi Ta thì cho tới vĩnh cửu sẽ không chết” là nói đến người đã được tái sinh bởi đức tin nơi ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nếu tiếp tục giữ vững đức tin nơi Đấng Christ thì người ấy sẽ không bao giờ bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa.
Giăng 8:54-56
54 Đức Chúa Jesus đã trả lời: “Nếu Ta tôn vinh chính mình, sự vinh quang của Ta chẳng ra gì. Ấy là Cha của Ta làm vinh hiển Ta. Đấng các ngươi xưng rằng, Ngài là Thiên Chúa của các ngươi.
55 Nhưng các ngươi chẳng biết Ngài. Còn Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, Ta sẽ là kẻ nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và giữ Lời của Ngài.
56 Áp-ra-ham, tổ phụ của các ngươi, đã mừng rỡ được nhìn thấy ngày của Ta. Người đã thấy và đã vui mừng.
Sự tự tôn vinh chính mình của một người luôn luôn không là gì. Vì mọi sự vinh quang thuộc về Thiên Chúa. Chỉ khi một người được Đức Chúa Trời làm cho vinh hiển thì sự vinh quang của người ấy mới là thật và có giá trị.
Những người Pha-ri-si gọi Đức Chúa Trời là Thiên Chúa của họ nhưng họ không hề biết Ngài. Động từ “biết” trong văn hóa của người I-sơ-ra-ên có ý nghĩa rất sâu sắc. Nó không phải chỉ là sự nhận biết bên ngoài mà còn là sự nhận biết cả về tình cảm và thần trí. Chính vì thế, động từ “biết” được người I-sơ-ra-ên dùng để chỉ sự quan hệ tình dục của vợ chồng. “Biết” Đức Chúa Trời là có sự hiểu biết về Ngài, về ý muốn và việc làm của Ngài, dẫn đến sự thay đổi của bản thân, từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm để tương ứng với Ngài. Sự “biết” Đức Chúa Trời chỉ có thể xảy ra khi một người thật lòng tin kính Đức Chúa Trời, sẵn lòng vâng giữ Lời Ngài.
Có lẽ Áp-ra-ham đã được Đức Chúa Trời ban cho khải tượng về sự Đức Chúa Jesus sẽ đến trong thế gian, làm sinh tế chuộc tội cho nhân loại. Rất có thể ông nhận được khải tượng trong lần ông vâng lời Đức Chúa Trời, đem I-sác lên núi để làm của lễ thiêu, dâng lên Ngài. Và có lẽ từ trong Ba-ra-đi nơi âm phủ, Áp-ra-ham đã vui mừng khi thấy Đức Chúa Jesus vào trong thế gian để hoàn thành sự cứu rỗi loài người. Rất có thể Áp-ra-ham cũng được Đức Chúa Trời ban cho khải tượng về Vương Quốc Ngàn Năm và Vương Quốc Đời Đời, dưới sự cai trị của Đức Chúa Jesus. Vì nhóm chữ “ngày của Ta” có thể hiểu là được Đức Chúa Jesus dùng để nói đến cả ba thời kỳ: thời kỳ Đức Chúa Jesus đến thế gian để hoàn thành sự cứu chuộc nhân loại, thời kỳ Ngài thiết lập và cai trị Vương Quốc Ngàn Năm, cùng thời kỳ Ngài thiết lập và cai trị Vương Quốc Đời Đời. Chúng ta có thể tin rằng, Đức Chúa Trời không giấu Áp-ra-ham những việc làm lớn lao và lạ lùng của Ngài, như lời Ngài đã phán, được ghi lại trong Sáng Thế Ký 18:17, “Ta sẽ giấu Áp-ra-ham điều mà Ta đang làm sao?”
Giăng 8:57-59
57 Vậy, những người Do-thái đã nói với Ngài: “Ngươi chưa được năm mươi tuổi mà ngươi đã thấy Áp-ra-ham?”
58 Đức Chúa Jesus đã phán với họ: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, trước khi đã có Áp-ra-ham, Ta Là!” [Có nghĩa: Ta Tự Hữu Hằng Hữu! Xem chú thích ở câu 24.]
59 Bấy giờ, họ đã nhặt đá để ném vào Ngài. Nhưng Đức Chúa Jesus đã ẩn mình. Ngài đã đi khỏi Đền Thờ, đi ngang qua giữa họ, và Ngài đã qua khỏi như vậy.
Sứ Đồ Giăng vẫn tiếp tục dùng cách gọi “những người Do-thái” để gọi những người Pha-ri-si. Có lẽ Đức Thánh Linh đã thần cảm ông liên tiếp dùng cách gọi đó để nhấn mạnh đến não trạng chung của phần lớn dân I-sơ-ra-ên. Một não trạng kiêu ngạo, không tin, sẵn sàng phạm thượng những gì không hiểu, và biến sự thờ phượng Đức Chúa Trời thành một nghi thức tôn giáo hơn là thể hiện sự tin kính thật.
Trong tâm trí của những người Pha-ri-si, họ dựa vào lời Đức Chúa Jesus phán rằng, Áp-ra-ham đã vui mừng khi nhìn thấy ngày của Ngài, để hiểu, Đức Chúa Jesus hàm ý, Ngài biết Áp-ra-ham và thấy Áp-ra-ham. Vì thế, họ mỉa mai Ngài: “Ngươi chưa được năm mươi tuổi mà ngươi đã thấy Áp-ra-ham?” Vào thời điểm ấy, Đức Chúa Jesus đã vào khoảng gần 33 tuổi và Áp-ra-ham đã qua đời khoảng 1967 năm trước đó. Có lẽ những người Pha-ri-si đã tự tin chắc rằng, Đức Chúa Jesus bị quỷ nhập và nói những lời vô lý. Câu trả lời của Đức Chúa Jesus cho lời mỉa mai của họ đã khiến cho họ nổi giận và lập tức nhặt đá để ném Ngài. Vì trong lời phán của Đức Chúa Jesus, Ngài đã gián tiếp xưng nhận Ngài là Thiên Chúa.
Lời phán của Đức Chúa Jesus có nghĩa như sau:
“Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, Ta tự có và có mãi trước khi Áp-ra-ham được sinh ra!”
“Ta Là” là tên riêng của Thiên Chúa, với ý nghĩa “Ta tự có và có mãi” mà Ngài đã tự xưng với Môi-se, được ghi lại trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3:14. Danh xưng “Đấng Ta Là” được dịch sang tiếng Hán Việt là “Đấng Tự Hữu Hằng Hữu”. Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng tự có và có mãi. Vì thế, khi Đức Chúa Jesus tự xưng “Ta Là” thì có nghĩa Ngài tự xưng Ngài là Thiên Chúa. Trong suốt lời Đức Chúa Jesus tự làm chứng về mình, trước những người Pha-ri-si, Ngài đã ba lần tự xưng “Ta Là” (Giăng 8:24, 28, 58). Những người Pha-ri-si hiểu rõ ý nghĩa của danh xưng “Ta Là”, nhất là khi Đức Chúa Jesus nói rõ, Ngài có trước Áp-ra-ham. Đối với họ, đó là lời phạm thượng được nói ra, từ một người tự xưng mình là Thiên Chúa. Vì thế, họ nhặt đá để ném chết Ngài.
Nhưng trong khi họ nhặt đá thì Đức Chúa Jesus đã “ẩn mình”. Động từ “ẩn mình” có nghĩa là tự che giấu chính mình. Có thể Đức Chúa Jesus đã bước vào trong đám đông dân chúng để ra khỏi Đền Thờ. Đại danh từ “họ” trong câu “Ngài đã đi khỏi Đền Thờ, đi ngang qua giữa họ, và Ngài đã qua khỏi như vậy”, không phải chỉ về những người Pha-ri-si mà chỉ về đám dân đông.
Mặc dù Đức Chúa Jesus đã được Đấng Thần Linh thần cảm để Ngài biết trước rằng, những người Pha-ri-si ấy sẽ không bao giờ ăn năn và sẽ chết trong những tội lỗi của họ, nhưng Ngài vẫn rao giảng lẽ thật cho họ và là các lẽ thật quan trọng. Ngài xưng nhận Ngài là sự sáng của thế gian, ai theo Ngài sẽ có ánh sáng của sự sống; hàm ý, Ngài là Đấng Christ, ai theo Ngài thì sẽ có sự cứu rỗi. Ba lần Ngài xưng nhận Ngài là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ngài chính là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu có mặt giữa loài người, trong thân thể xác thịt của loài người, được sinh ra bởi loài người. Khác với sự có mặt của Ngài giữa loài người, trong hình dạng của loài người, như lần Ba Ngôi Thiên Chúa đã hiện ra với Áp-ra-ham, được ghi lại trong Sáng Thế Ký 18:1-3. Bởi đó mà con người xác thịt của Ngài mang tên Jesus với ý nghĩa: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Đấng Cứu Rỗi.
Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.
Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
30/11/2024
Ghi Chú
Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.
[1] https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-chua-chet-va-ngay-chua-phuc-sinh/
Karaoke Thánh Ca: “Nhớ Chúa”
https://karaokethanhca.net/nho-chua/
Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.