Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ – TL091 Đức Chúa Jesus Là Người Chăn Ngay Lành

146 views

YouTube: https://youtu.be/xgqPvHehE1o

Chú Giải Bốn Sách Tin Lành
Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ
TL091 Đức Chúa Jesus Là Người Chăn Ngay Lành
Giăng 10:1-21

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Giăng 10:1-21

1 “Thật sự! Thật sự! Ta bảo các ngươi, kẻ vào trong chuồng chiên chẳng bởi cửa nhưng trèo từ nơi khác, thì kẻ ấy là kẻ trộm và kẻ cướp.

2 Nhưng ai vào bởi cửa là người chăn chiên của bầy chiên.

3 Người canh cửa mở cửa cho người. Bầy chiên nghe tiếng của người. Người gọi bầy chiên của mình bằng tên và dẫn chúng ra ngoài.

4 Khi người đã đem bầy chiên của mình ra, người đi trước chúng. Bầy chiên theo sau người, vì chúng biết tiếng của người.

5 Nhưng chúng chẳng theo người lạ; trái lại, chúng sẽ chạy trốn khỏi người, vì chúng chẳng biết tiếng của người lạ.”

6 Đức Chúa Jesus đã phán ngụ ngôn đó với họ, nhưng họ đã không hiểu các điều mà Ngài đã phán với họ là gì.

7 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ lần nữa: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, Ta là cửa của bầy chiên.

8 Hết thảy những kẻ đã đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp. Nhưng chiên đã không nghe chúng nó.

9 Ta là cái cửa! Nếu ai bởi Ta mà vào, người ấy sẽ được cứu, và sẽ vào, ra, và sẽ gặp đồng cỏ.

10 Kẻ trộm không đến, trừ khi để trộm, giết, và hủy diệt. Ta đã đến để họ có sự sống và có sự sống sung mãn.

11 Ta là Người Chăn Ngay Lành. Người Chăn Ngay Lành phó sự sống của mình vì bầy chiên.

12 Kẻ làm thuê chẳng phải là người chăn; bầy chiên không thuộc về nó; nó thấy chó sói đến, thì nó bỏ bầy chiên mà chạy. Chó sói bắt chúng và làm tan lạc bầy chiên.

13 Kẻ làm thuê bỏ chạy, vì nó là kẻ làm thuê, chẳng quan tâm đến bầy chiên.

14 Ta là Người Chăn Ngay Lành. Ta biết chiên của Ta, và Ta được biết bởi chiên của Ta,

15 như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Ta phó sự sống của Ta vì bầy chiên.

16 Và những chiên khác Ta có mà không thuộc về chuồng này, Ta cũng phải dẫn dắt. Chúng sẽ nghe tiếng của Ta và sẽ trở nên một bầy với một người chăn.

17 Bởi điều này, Cha yêu Ta, vì Ta phó sự sống của Ta để lấy nó lại.

18 Chẳng ai cất nó khỏi Ta nhưng Ta phó nó từ chính Ta. Ta có quyền phó nó và Ta có quyền lấy nó lại. Mệnh lệnh này Ta đã nhận từ Cha của Ta.”

19 Vậy, lại có sự phân rẽ giữa những người Do-thái vì các lời ấy.

20 Nhiều người trong họ đã nói: “Hắn có quỷ và bị điên. Sao các ngươi nghe hắn?”

21 Những kẻ khác đã nói: “Ấy chẳng phải là các lời nói của một kẻ có quỷ. Quỷ không thể mở mắt người mù.”

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về các lẽ thật rất quan trọng. Đức Chúa Jesus đã dùng các hình ảnh của chuồng chiên, bầy chiên, người giữ cửa chuồng chiên, kẻ trộm, kẻ cướp, người chăn chiên, kẻ làm thuê, cửa của chiên, đồng cỏ, và chó sói để tiêu biểu cho các lẽ thật ấy.

Sự phán dạy của Đức Chúa Jesus trong phân đoạn Thánh Kinh mà chúng ta cùng nhau học trong bài này là sự Ngài tiếp tục phán với đám dân đông tại Đền Thờ, trong đó có những người Pha-ri-si chống nghịch Ngài. Họ là những người chứng kiến cảnh người vốn bị mù bẩm sinh nhưng đã được Đức Chúa Jesus chữa lành, sấp mình thờ phượng Ngài.

Giăng 10:1-3

1 “Thật sự! Thật sự! Ta bảo các ngươi, kẻ vào trong chuồng chiên chẳng bởi cửa nhưng trèo từ nơi khác, thì kẻ ấy là kẻ trộm và kẻ cướp.

2 Nhưng ai vào bởi cửa là người chăn chiên của bầy chiên.

3 Người canh cửa mở cửa cho người. Bầy chiên nghe tiếng của người. Người gọi bầy chiên của mình bằng tên và dẫn chúng ra ngoài.

Danh từ “chuồng chiên” là một danh từ ghép. Từ thứ nhất “αὐλή” (aulē) /ow-lay’ – ao-lây/ (G833) có nghĩa là khoảng sân lộ thiên chung quanh nhà, có vách tường hoặc hàng rào bao bọc. Từ thứ nhì “πρόβατον” (probaton) /prob’-at-on – prá-ba-ton/ (G4263) được dùng để chỉ các loại gia súc ăn cỏ, có bốn chân, đặc biệt là dùng để gọi chiên. Vì vậy, danh từ “chuồng chiên” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh chỉ khu vực lộ thiên chung quanh nhà, được dùng làm chỗ giữ chiên vào ban đêm.

Chuồng chiên” cũng có thể là một khu vực ngoài đồng, cách xa làng mạc, được dựng rào chung quanh để ban đêm chiên được đưa vào bên trong, tránh bị kẻ trộm và chó sói tấn công.

Chuồng chiên chỉ có một cửa để vào, ra. Kẻ trộm muốn trộm chiên thì tìm cách trèo qua vách tường hoặc hàng rào để vào chuồng, lén lút bắt chiên. Khi bị phát hiện, kẻ trộm có thể biến thành kẻ cướp, dùng sức mạnh trấn áp người giữ cửa để cướp chiên. Cũng có những kẻ cướp chuyên nghiệp tấn công người chăn hoặc người giữ cửa để cướp đi nguyên bầy chiên.

Những người giàu thường thuê người canh giữ cửa chuồng chiên. Ban đêm, người giữ cửa canh gác cửa chuồng chiên, không cho kẻ gian xâm nhập. Sáng sớm, khi người chăn chiên đến, thì người canh cửa mở cửa để người chăn chiên vào chuồng, gọi chiên và dắt chiên ra khỏi chuồng, đưa chúng đến các đồng cỏ và các mé nước để chúng được ăn và uống. Những người nuôi chiên nhưng không đủ giàu vừa là người chăn vừa là người canh giữ cửa chuồng chiên của chính mình.

Tại Trung Đông, những người chăn chiên có thói quen đặt tên cho những con chiên của mình. Thói quen ấy vẫn còn cho tới ngày nay. Giữa người chăn chiên và bầy chiên có mối quan hệ rất là thân thiết.

Chúng ta có thể hiểu rằng:

“Chuồng chiên” là Hội Thánh.

“Bầy chiên” là con dân Chúa trong Hội Thánh.

“Cửa” trong ba câu này là sự cho phép của Đức Chúa Trời, qua Đức Chúa Jesus Christ. Chỉ những ai có đức tin vào trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, tức là thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì họ mới được Ngài cho vào trong Hội Thánh, trở thành chiên trong chuồng (Giăng 6:65). Chỉ những ai được Đức Chúa Jesus ban cho chức vụ chăn bầy (Ê-phê-sô 4:11) thì mới được Đức Chúa Trời cho vào trong Hội Thánh để chăn dắt Hội Thánh.

“Trèo từ nơi khác” là xâm nhập Hội Thánh không bởi đức tin nơi sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, không bởi sự ban cho chức vụ từ Đức Chúa Jesus Christ, không bởi sự cho phép của Đức Chúa Trời.

“Kẻ trộm” là kẻ trà trộn vào trong Hội Thánh để trục lợi. Kẻ ấy không thật sự tin nhận Tin Lành, mục đích của kẻ ấy là để thu các món lợi vật chất từ con dân Chúa.

“Kẻ cướp” là giáo sư giả thuộc các giáo hội tà giáo, tấn công vào Hội Thánh, gieo rắc những giáo lý nghịch Thánh Kinh, làm băng hoại Hội Thánh.

“Người giữ cửa” là Đức Chúa Trời, Đấng luôn canh giữ mọi con dân của Ngài.

“Này! Đấng canh giữ I-sơ-ra-ên sẽ không buồn ngủ cũng không ngủ.” (Thi Thiên 121:4).

“Đấng Tự Hữu Hằng Hữu sẽ canh giữ sự ra và sự vào của ngươi, từ nay cho tới vĩnh cửu.” (Thi Thiên 121:8).

“Ta, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, đã canh giữ nó từng khoảnh khắc. Ta sẽ tưới nó, kẻo có sự gì sẽ hại nó. Đêm và ngày Ta sẽ canh giữ nó.” (Ê-sai 27:3).

Mặc dù Đức Chúa Trời là Đấng canh giữ Hội Thánh nhưng Hội Thánh địa phương nào phạm tội chứa chấp các giáo sư giả, thỏa hiệp với tà giáo, như hai Hội Thánh tại Bẹt-găm và tại Thi-a-ti-rơ (Khải Huyền 2), mà không ăn năn thì Đức Chúa Trời sẽ để cho Hội Thánh ấy bị tan lạc.

“Người chăn chiên” là người được Đức Chúa Jesus ban cho chức vụ chăn bầy để chăn dắt con dân Chúa trong Hội Thánh. Chức vụ người chăn trong Hội Thánh không thể do một người tự mình xưng nhận, cũng không thể do các giáo hội phong chức. Lời Chúa dạy rõ:

“Thực tế, Ngài đã cho một số làm sứ đồ, một số làm tiên tri, một số làm người giảng Tin Lành, một số làm người chăn và người dạy…” (Ê-phê-sô 4:11).

Chúng tôi xin trích dẫn dưới đây, từ bài giảng “Chức Vụ Chăn Bầy” đã được đăng trên khu mạng timhieuthanhkinh.com [1]:

“Như đã trình bày trên đây, người chăn bầy chân thật của Chúa không phải là người được các giáo hội huấn luyện, công nhận, phong chức, và trả lương. Hội Thánh của Chúa cũng không phải là những tổ chức nhóm họp trong các giáo hội. Hễ nơi nào có những người thật lòng tin nhận Chúa và sống theo Lời Chúa nhóm họp lại với nhau, thì đó là sự nhóm họp của Hội Thánh. Trong những buổi nhóm họp đó, Chúa sẽ dùng một hay nhiều người giảng dạy Lời Chúa cho Hội Thánh. Đó là các trưởng lão trong Hội Thánh. Trong các trưởng lão đó, sẽ có người được Chúa giao cho chức vụ chăn bầy.”

“Nếu Hội Thánh hoàn toàn vâng phục Chúa, sống theo Lời Chúa, thì chính Đức Thánh Linh sẽ tỏ ra cho Hội Thánh biết, ai là người được Chúa ban cho chức vụ chăn bầy tại một Hội Thánh địa phương. Công Vụ Các Sứ Đồ 13:1-3 là trường hợp điển hình cho chúng ta biết, nếu Hội Thánh sống đẹp ý Chúa, thì sẽ nghe được sự phán dạy của Đức Thánh Linh về các chức vụ trong Hội Thánh. Riêng bản thân của người được Chúa giao cho chức vụ chăn bầy, hoặc bất cứ chức vụ nào, cũng tự biết Chúa đã chọn mình, biệt riêng mình cho chức vụ.”

Xin quý ông bà, anh chị em đọc hoặc nghe bài giảng “Chức Vụ Chăn Bầy” để biết thêm chi tiết về chức vụ người chăn trong Hội Thánh.

Mặc dù trong câu 11 Đức Chúa Jesus xưng Ngài là “Người Chăn Ngay Lành” nhưng danh từ “người chăn” trong các câu từ 2 đến 4 là chỉ về những người được Đức Chúa Jesus ban cho chức vụ chăn bầy, làm công việc chăn dắt con dân Chúa, trong các Hội Thánh địa phương.

Người chăn chân thật có sự tương giao mật thiết với những con chiên chân thật. Người chăn chân thật yêu Chúa trên hết mọi sự, nên người ấy cũng yêu con dân Chúa hơn chính mình và sẵn sàng hy sinh mọi sự cho họ. Người chăn chân thật biết cá tính của mỗi con dân Chúa. Nhóm chữ “người gọi bầy chiên của mình bằng tên” hàm ý, người chăn chân thật có sự tiếp xúc gần gũi, thân thiết với con dân Chúa trong Hội Thánh. Người chăn chân thật không biệt riêng mình thành một giai cấp trên trước đối với con dân Chúa, trái lại, người chăn chân thật tự hạ mình, làm người phục vụ cho con dân Chúa.

Nhóm chữ “dẫn chúng ra ngoài” hàm ý, người chăn chân thật chăm lo cho sự sống thuộc linh của con dân Chúa. Như người chăn chiên đưa chiên đến những đồng cỏ xanh tươi, những mé nước bình tịnh, người chăn chân thật trong Hội Thánh đưa con dân Chúa đến với sự hiểu biết lẽ thật của Lời Chúa để họ được lớn lên trong Lời Chúa và được an nghỉ trên Lời Chúa. Điều ấy được thực hiện qua sự giảng dạy Lời Chúa cách trung thực và hết lòng.

Giăng 10:4-5

4 Khi người đã đem bầy chiên của mình ra, người đi trước chúng. Bầy chiên theo sau người, vì chúng biết tiếng của người.

5 Nhưng chúng chẳng theo người lạ; trái lại, chúng sẽ chạy trốn khỏi người, vì chúng chẳng biết tiếng của người lạ.”

Người chăn chân thật sống nếp sống đúng theo Lời Chúa để làm gương cho con dân Chúa. Con dân chân thật của Chúa vâng phục người chăn, và sống theo gương của người chăn. Bởi sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, họ biết rằng, người chăn rao giảng Lời Chúa cách trung thực cho họ. Bởi sự thôi thúc của Đức Thánh Linh mà họ sốt sắng sống theo Lời Chúa.

Khi có kẻ lạ mạo nhận là tôi tớ của Chúa, nhân danh Chúa rao giảng những điều sai trật Thánh Kinh thì con dân chân thật của Chúa nhận biết ngay, và họ tránh xa kẻ ấy. Họ “chẳng biết tiếng của người lạ” vì sự rao giảng của kẻ ấy không đến từ Đức Chúa Trời, không đến từ Thánh Kinh, không được sự ấn chứng của Đức Thánh Linh trong thần trí của họ.

Chỉ có những người tin Chúa nhưng không hết lòng sống theo Lời Chúa, không hết lòng sống cho Chúa thì mới bị tà giáo dẫn dụ.

Giăng 10:6-7

6 Đức Chúa Jesus đã phán ngụ ngôn đó với họ, nhưng họ đã không hiểu các điều mà Ngài đã phán với họ là gì.

7 Vậy, Đức Chúa Jesus đã bảo họ lần nữa: “Thật sự! Thật sự! Ta nói với các ngươi, Ta là cửa của bầy chiên.

Lời phán của Đức Chúa Jesus được ghi lại từ câu 1 đến câu 5 là một ngụ ngôn. Nhưng những người nghe Ngài đã không hiểu ý nghĩa của ngụ ngôn ấy.

Dân I-sơ-ra-ên biết con dân Chúa được gọi là chiên của Chúa. Chắc hẳn ai nấy trong họ đều thuộc lòng Thi Thiên 23 và Thi Thiên 100.

Thi Thiên 23 mở đầu với hai câu:

“Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Đấng Chăn Chiên của tôi. Tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì. Ngài khiến tôi an nghỉ nơi những đồng cỏ xanh tươi. Ngài dẫn tôi đến các mé nước bình tịnh.” (Thi Thiên 23:1-2).

Thi Thiên 100 có câu:

“Hãy biết rằng, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Ngài là Thiên Chúa. Ngài đã dựng nên chúng tôi, không phải chúng tôi tự làm ra mình. Chúng tôi là con dân của Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài.” (Thi Thiên 100:3).

Thế nhưng họ lại không hiểu ngụ ngôn về chuồng chiên và người chăn chiên. Vì thế, Đức Chúa Jesus lại phán thêm một ngụ ngôn khác. Ngài xưng nhận, Ngài là “cửa của bầy chiên”.

Giăng 10:8-10

8 Hết thảy những kẻ đã đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp. Nhưng chiên đã không nghe chúng nó.

9 Ta là cái cửa! Nếu ai bởi Ta mà vào, người ấy sẽ được cứu, và sẽ vào, ra, và sẽ gặp đồng cỏ.

10 Kẻ trộm không đến, trừ khi để trộm, giết, và hủy diệt. Ta đã đến để họ có sự sống và có sự sống sung mãn.

Câu: “Hết thảy những kẻ đã đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp.” không bao gồm Môi-se và các tiên tri, hoặc bất cứ ai đã được Đức Chúa Trời sai đến, chăn dắt con dân của Ngài, được ghi lại trong Thánh Kinh. Nhưng câu ấy chỉ về những kẻ mạo nhận là tiên tri, là người chăn, là Đấng Christ trong khoảng thời gian chừng 400 năm Đức Chúa Trời im lặng đối với dân I-sơ-ra-ên. Đó là khoảng thời gian từ sau khi Tiên Tri Ma-la-chi qua đời cho tới khi Giăng Báp-tít xuất hiện.

Trong khoảng thời gian đó, đã có nhiều người nổi lên, tự xưng mình được Đức Chúa Trời sai đến để giải cứu dân I-sơ-ra-ên. Điển hình là Thêu-đa và Giu-đa, như đã được nhắc đến trong Công Vụ Các Sứ Đồ.

“Vì trước những ngày này, Thêu-đa đã dấy lên, xưng mình là ai đó, mà một số khoảng bốn trăm người đã theo hắn. Hắn đã bị giết. Hết thảy những kẻ nào tin theo hắn đều đã bị giải tán và trở nên hư không. Sau đó, Giu-đa, người Ga-li-lê, đã dấy lên, trong những ngày lập sổ dân, kéo đi nhiều người theo hắn. Hắn cũng đã chết. Hết thảy những kẻ nào tin theo hắn đều đã bị tan lạc.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 5:36-37).

Lời phán của Đức Chúa Jesus nhằm khẳng định, trước Ngài, những ai không được ghi lại trong Thánh Kinh mà tự xưng là người được Đức Chúa Trời sai đến để chăn dắt dân I-sơ-ra-ên, thì đều là kẻ trộm và kẻ cướp. Thực tế, trừ một số ít, phần lớn dân I-sơ-ra-ên đã không nghe theo những kẻ ấy.

Đức Chúa Jesus tự xưng Ngài là “cái cửa” hàm ý, Ngài là phương tiện duy nhất để một người được cứu rỗi và gia nhập Hội Thánh. Vì thế, sau đó, Ngài đã khẳng định: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống. Không ai đến cùng Cha nếu chẳng bởi Ta” (Giăng 14:6). Về sau, Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phi-e-rơ, cũng khẳng định:

“Chẳng có sự cứu rỗi trong ai khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho trong loài người, để chúng ta phải được cứu trong danh ấy.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:12).

“Bởi Ta mà vào” có nghĩa là được vào trong Hội Thánh, qua sự tin nhận Đấng Christ.

“Sẽ được cứu” là sẽ được Đức Chúa Trời tha tội, thoát khỏi sự hình phạt vì phạm các điều răn của Đức Chúa Trời; sẽ được Đức Chúa Jesus làm cho sạch bản tính tội, thoát khỏi sự nô lệ cho tội lỗi; sẽ được Đức Thánh Linh ban cho sự sống và năng lực từ Thiên Chúa để đắc thắng tội lỗi và sự chết.

“Sẽ vào, ra, và sẽ gặp đồng cỏ” là sẽ được vào trong Hội Thánh, sẽ được Đức Chúa Jesus sai những người chăn chân thật đến chăn dắt để được no đủ Lời Chúa, được lớn lên trong đức tin và trong sự hiểu biết Lời Chúa.

“Kẻ trộm không đến, trừ khi để trộm, giết, và hủy diệt” có nghĩa là mục đích duy nhất của kẻ trộm là để trục lợi từ con dân Chúa cho dù có vì thế mà làm cho thiệt hại con dân Chúa, từ thuộc thể đến thuộc linh. Sự trộm hướng về tài sản vật chất còn sự giết và hủy diệt hướng về thuộc linh, là sự làm cho một người mất đức tin và bị hư mất đời đời.

“Ta đã đến để họ có sự sống và có sự sống sung mãn” có nghĩa là Đức Chúa Jesus đến để ban sự sống thuộc thể lẫn thuộc linh cho bất cứ ai tin nhận Ngài. Sự sống thuộc thể là thân thể vật chất được sống lại hoặc được biến hóa và sống đời đời trong hạnh phúc, trong Vương Quốc Trời. Sự sống thuộc linh là sự mãi mãi hiểu biết Thiên Chúa ngày càng hơn.

“Và đây là sự sống vĩnh cửu, rằng, họ nhìn biết Ngài, Thiên Chúa chân thật duy nhất, cùng Jesus Christ, là Đấng Ngài đã sai đến.” (Giăng 17:3).

Người tin nhận Đấng Christ có cuộc sống sung mãn về thuộc thể lẫn thuộc linh. “Sự sống sung mãn” được nói đến ở đây không phải là sự sống được dư dật về của cải vật chất, mặc dù có một số con dân Chúa được Đức Chúa Trời ban cho có sự dư dật về của cải vật chất. “Sự sống sung mãn” trong Chúa là sự dư dật niềm vui trong cuộc sống và dư dật năng lực từ Thiên Chúa để sống theo Lời Chúa, dù là ở trong cảnh ngộ nào. Đời sống của Sứ Đồ Phao-lô, như được ông mô tả trong II Cô-rinh-tô 11:23-28, trải qua biết bao nhiêu là gian nan, khổ sở, khó khăn, thiếu thốn nhưng đó là một đời sống sung mãn, khiến ông vượt thắng mọi gian khó. Con dân Chúa trong khi bị khổ vẫn có niềm vui và sự thỏa lòng. Vì họ biết rằng, đó là ý muốn của Đức Chúa Trời, và sự chịu khổ của mình sẽ được Đức Chúa Jesus ban thưởng cách xứng đáng.

“Và nếu chúng ta là con cái, thì chúng ta cũng là những người kế tự. Thật, là những người kế tự của Thiên Chúa và là những người đồng kế tự với Đấng Christ. Nếu chúng ta cùng chịu khổ thì chúng ta cũng cùng được vinh quang với Ngài.” (Rô-ma 8:17).

Con dân chân thật của Chúa không thể nào không chịu khổ vì danh Chúa, vì họ được kêu gọi đến sự chịu khổ vì danh Chúa (I Phi-e-rơ 2:21). Con dân chân thật của Chúa không than van, không oán trách khi gặp cảnh khổ, nhưng vui mừng và tạ ơn Chúa, vì biết rằng, mọi sự Đức Chúa Trời cho phép xảy ra, đều hiệp lại, làm ích cho họ (Rô-ma 8:28). Con dân chân thật của Chúa luôn có sự sống sung mãn trong Chúa, ngay khi họ còn ở trong cuộc đời này.

Giăng 10:11-13

11 Ta là Người Chăn Ngay Lành. Người Chăn Ngay Lành phó sự sống của mình vì bầy chiên.

12 Kẻ làm thuê chẳng phải là người chăn; bầy chiên không thuộc về nó; nó thấy chó sói đến, thì nó bỏ bầy chiên mà chạy. Chó sói bắt chúng và làm tan lạc bầy chiên.

13 Kẻ làm thuê bỏ chạy, vì nó là kẻ làm thuê, chẳng quan tâm đến bầy chiên.

Tính từ “καλός” (kalos) /kal-os’ – ka-lóts/ (G2570) bao gồm các nghĩa: xinh đẹp, xuất sắc, tinh khiết, nổi bật, cao quý, chân thật, hữu ích, đáng phục… Chúng tôi chọn dịch sang tiếng Việt là “ngay lành” để bao gồm ý tốt đẹp và chân thật.

Đức Chúa Jesus tự xưng nhận mình là “Người Chăn Ngay Lành” vì Ngài là Đấng Ngay Lành, Đấng đứng đầu những người được ban cho chức vụ chăn bầy trong Hội Thánh. Một người chăn ngay lành luôn sẵn sàng phó sự sống của mình để bảo vệ bầy chiên. Riêng trong trường hợp của Đức Chúa Jesus, Ngài đã phó sự sống của Ngài để khiến cho những ai tin Ngài được trở thành chiên của Ngài.

Theo gương của Đức Chúa Jesus, tất cả những người chăn chân thật cũng sẵn sàng phó sự sống của mình vì bầy chiên. Phó sự sống không phải chỉ có nghĩa là bỏ đi mạng sống, mà còn là bỏ đi phương tiện sống, như tiền bạc, của cải, địa vị, quyền thế… khi cần để bảo vệ bầy chiên.

“Kẻ làm thuê” được nói đến ở đây là kẻ chăn chiên thuê. Trong thực tế, kẻ chăn chiên thuê ít khi chịu hy sinh vì bầy chiên. Khi bầy chiên bị sói hoặc kẻ cướp tấn công, kẻ chăn thuê có thể bỏ chạy để tự cứu lấy mình, bỏ mặc bầy chiên cho sói cắn xé, làm cho tan lạc, hoặc để cho kẻ cướp cướp mất chiên. Những kẻ chăn thuê là những kẻ được các giáo hội mang danh Chúa thuê mướn để làm công việc giảng dạy Lời Chúa. Họ sẽ không bao giờ đặt quyền lợi và sự an toàn của con dân Chúa lên trên quyền lợi và sự an toàn của họ. Kẻ chăn thuê cũng thường đặt mình lên trên con dân Chúa, kiêu ngạo, khoe khoang, tham lam, và dối trá.

Chúng ta cần phân biệt rõ điều này. Chỉ có một Hội Thánh của Chúa là tập thể của bất cứ những ai thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo Lời Chúa. Hội Thánh của Chúa không là các giáo hội mang danh Chúa, dù họ cũng tự xưng là “hội thánh”. Nhưng trong các giáo hội mang danh Chúa cũng có những con dân chân thật của Chúa. Thường khi những con dân chân thật của Chúa trong các giáo hội mang danh Chúa được chăn dắt bởi những kẻ chăn thuê.

Đức Chúa Jesus là “Người Chăn Ngay Lành”. Những ai nhận được chức vụ chăn bầy từ Đức Chúa Jesus cũng phải giữ mình để luôn là người chăn ngay lành theo gương của Ngài.

Con dân chân thật của Chúa cần đọc và suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm để cẩn thận làm theo (Giô-suê 1:8), nhờ đó, biết được những sự giảng dạy sai trái Lời Chúa của các giáo hội và sớm thoát ra khỏi các giáo hội. Trong những ngày cuối cùng này, con dân chân thật của Chúa càng phải tỉnh thức, giữ mình thánh khiết trong sự sống theo Lời Chúa, tránh xa những sự giảng dạy không đúng với Thánh Kinh. Con dân chân thật của Chúa nhóm hiệp lại với nhau thành một Hội Thánh địa phương, và Chúa sẽ ban cho họ người chăn ngay lành.

Danh từ “ποιμήν” (poimēn) /poy-mane’ – poi-men/ (G4166) trong lời tự xưng của Đức Chúa Jesus được các bản Thánh Kinh Việt Ngữ dịch là “người chăn”. Nhưng cũng danh từ đó trong Ê-phê-sô 4:11, dùng để chỉ chức vụ chăn bầy trong Hội Thánh thì lại dịch thành “mục sư” có nghĩa là “thầy chăn” là điều không thể chấp nhận. Lẽ nào Đức Chúa Jesus là “người chăn” còn những người được Ngài ban cho chức vụ chăn bầy lại xưng mình là “thầy chăn”? Nhất là khi chính Đức Chúa Jesus đã truyền cho dân chúng và các môn đồ của Ngài rằng: “đừng chịu ai gọi mình là Thầy; vì các ngươi chỉ có một Thầy, là Đấng Christ” (Ma-thi-ơ 23:10).

Xin quý ông bà, anh chị em đọc bài “Về Danh Xưng Mục Sư và Reverend” trên khu mạng timhieuthanhkinh.com [2].

Giăng 10:14-16

14 Ta là Người Chăn Ngay Lành. Ta biết chiên của Ta, và Ta được biết bởi chiên của Ta,

15 như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Ta phó sự sống của Ta vì bầy chiên.

16 Và những chiên khác Ta có mà không thuộc về chuồng này, Ta cũng phải dẫn dắt. Chúng sẽ nghe tiếng của Ta và sẽ trở nên một bầy với một người chăn.

Một lần nữa, Đức Chúa Jesus xưng nhận Ngài là “Người Chăn Ngay Lành”. Ngài biết mỗi một người thuộc về Ngài và Ngài cũng được họ nhận biết.

Động từ “biết” không chỉ có nghĩa là sự nhận biết bên ngoài mà còn là sự hiểu biết rất thân thiết về nhau, như sự hiểu biết lẫn nhau giữa vợ chồng. Đức Chúa Jesus ví sự Ngài biết con dân Chúa và Ngài được con dân Chúa biết, như Đức Chúa Trời biết Ngài và Ngài biết Đức Chúa Trời. Một sự biết đầy trọn theo khả năng nhận thức.

Đức Chúa Jesus biết mỗi con dân Chúa là điều đương nhiên. Nhưng không phải hễ ai xưng nhận mình là con dân Chúa thì Ngài biết họ. Chính Đức Chúa Jesus đã phán rằng, có nhiều người gọi Ngài là Chúa, họ nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ quỷ, và làm nhiều phép lạ. Nhưng Ngài phán với họ rằng, Ngài chẳng biết họ (Ma-thi-ơ 7:22-23). Ngài chỉ biết những ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, tức là vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời và tin nơi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus (Ma-thi-ơ 7:21). Ngay trong Kỳ Tận Thế cũng có những người như vậy, những người được Đức Chúa Jesus biết (Khải Huyền 12:17; 14:12).

Sự Đức Chúa Jesus được biết bởi mỗi con dân Chúa là điều đáng để cho chúng ta suy ngẫm. Một người chỉ thật sự biết Đức Chúa Jesus khi người ấy thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Ngài, và hết lòng sống theo Lời Chúa. Sự sống theo Lời Chúa khởi đầu bởi sự đọc, suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm để cẩn thận làm theo (Giô-suê 1:8). Tiếp theo đó là trung tín, chịu khổ để sống theo Lời Chúa. Con dân Chúa biết Đức Chúa Jesus và cả Đức Chúa Trời, lẫn Đức Thánh Linh bởi sự suy ngẫm Lời Chúa cùng kinh nghiệm sống theo Lời Chúa.

Thân cây lúc mới lớn lên được một mét có vài cành hay lúc đã cao đến vài chục mét có hàng chục cành thì lúc nào trong toàn cây cũng đầy trọn nhựa sống. Khả năng hiểu biết Lời Chúa và kinh nghiệm sống theo Lời Chúa của con dân Chúa ngày càng thêm lên thì sự biết Chúa cũng thêm lên, khiến cho con dân Chúa luôn ở trong sự biết Chúa cách đầy trọn.

Một lần nữa, Đức Chúa Jesus nhắc lại: “Ta phó sự sống của Ta vì bầy chiên.” Đó là một lẽ thật và đó cũng là điều ắt phải có để loài người được cứu rỗi và trở thành chiên của Ngài. Đó là điều lớn nhất mà Ngài có thể làm và vui lòng làm cho bầy chiên.

Hội Thánh được Đức Chúa Jesus Christ thành lập tại Giê-ru-sa-lem, và lúc ban đầu chỉ có con dân Chúa là người I-sơ-ra-ên. Họ là chiên đang ở trong chuồng vào lúc ấy. Nhưng trong các dân ngoại cũng có những người tin nhận Đức Chúa Jesus Christ và trở thành chiên của Ngài. Ngài sẽ đem họ vào trong Hội Thánh, tức là đem chiên bên ngoài về chung một chuồng, ở dưới sự chăn dắt của chính Ngài.

Mặc dù mỗi Hội Thánh địa phương có người chăn được Chúa sai phái để dẫn dắt và chăm sóc con dân Chúa, nhưng Đức Chúa Jesus là người chăn của Hội Thánh chung, không phân biệt địa phương, không phân biệt dân tộc, không phân biệt bất cứ điều gì. Khải Huyền 1:13 cho biết, Đức Chúa Jesus Christ vẫn đi lại giữa các Hội Thánh địa phương.

Giăng 10:17-18

17 Bởi điều này, Cha yêu Ta, vì Ta phó sự sống của Ta để lấy nó lại.

18 Chẳng ai cất nó khỏi Ta nhưng Ta phó nó từ chính Ta. Ta có quyền phó nó và Ta có quyền lấy nó lại. Mệnh lệnh này Ta đã nhận từ Cha của Ta.”

Đức Chúa Trời yêu Đức Chúa Jesus vì Đức Chúa Jesus sẵn sàng tình nguyện phó sự sống của Ngài, để ý muốn của Đức Chúa Trời được hoàn thành. Ý muốn của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jesus dâng mạng sống của Ngài làm của lễ chuộc tội cho loài người. Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jesus phó mạng sống của mình và lấy lại mạng sống ấy, sau khi đã hoàn thành sự cứu rỗi loài người. Và Đức Chúa Jesus, trong thân vị loài người có quyền phó đi mạng sống và có quyền lấy lại mạng sống. Nghĩa là Đức Chúa Jesus có quyền trên sự chết, cho dù nó có thể tác động trên Ngài. Chính sự sống lại của Đức Chúa Jesus sau khi chết là sự Ngài hoàn toàn đánh bại sự chết, và bất cứ ai thuộc về Ngài cũng chiến thắng sự chết như chính Ngài. Sự chết thứ nhất không thể cầm giữ họ và sự chết thứ nhì không thể tác động trên họ.

Giăng 10:19-21

19 Vậy, lại có sự phân rẽ giữa những người Do-thái vì các lời ấy.

20 Nhiều người trong họ đã nói: “Hắn có quỷ và bị điên. Sao các ngươi nghe hắn?”

21 Những kẻ khác đã nói: “Ấy chẳng phải là các lời nói của một kẻ có quỷ. Quỷ không thể mở mắt người mù.”

Sau khi nghe Đức Chúa Jesus phán dạy ngụ ngôn về chuồng chiên và người chăn, ngụ ngôn về cửa của chiên và người chăn ngay lành, thì những người Do-thái lại có sự phân rẽ giữa họ. Họ chia thành hai phe. Một phe vẫn cứng lòng, chống nghịch Đức Chúa Jesus, nói rằng, Ngài có quỷ và Ngài bị điên. Một phe thì có sự nhận định sáng suốt, cho rằng, người có quỷ thì không thể nói được những lời như Đức Chúa Jesus đã nói và cũng không thể chữa lành người bị mù.

Trong thế gian ngày nay có ba loại người. Loại người thứ nhất không tin nhận Đức Chúa Jesus Christ và công khai chống nghịch Ngài, điển hình là những kẻ cuồng tín Hồi Giáo. Loại người thứ nhì giả vờ tin nhận Đức Chúa Jesus Christ để lấy lòng người thân hoặc để trục lợi, điển hình là vô số người mang danh môn đồ của Đấng Christ, trong các giáo hội mang danh Chúa. Loại người thứ ba thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo Lời Chúa. Họ là chiên thật của Chúa, ở trong chuồng chiên của Ngài là Hội Thánh.

Thật lòng ăn năn tội là đau buồn về sự mình vi phạm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời và không muốn tái phạm.

Hết lòng tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus là chỉ tin nhận rằng, bởi sự chết của Đức Chúa Jesus mà mình được tha tội, không bởi bất cứ một việc làm nào khác hoặc không bởi bất cứ việc làm của ai khác.

Hết lòng sống theo Lời Chúa là đọc, suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm, và cẩn thận làm theo để giữ trọn Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus Christ, và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh, như đã chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17, Giăng 13:34, và Công Vụ Các Sứ Đồ 15:29 [3].

Chúng ta kết thúc bài học này tại đây.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời Thành Tín của Sự Bình An giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của mỗi một chúng ta đều được nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23), sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa Yêu Dấu của chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
21/12/2024

Ghi Chú

Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.

[1] https://timhieuthanhkinh.com/hoi-thanh-06-chuc-vu-chan-bay/

[2] https://timhieuthanhkinh.com/danh-xung-muc-su-va-reverend/

[3] https://timhieutinlanh.com/cac-dieu-ran-cua-thien-chua/

Karaoke Thánh Ca: “Nguyện Xin”
https://karaokethanhca.net/nguyen-xin/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.

Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.