Hội Thánh: 09 Các Ân Tứ
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết này:
https://www.opendrive.com/folders?MV85MDE2ODY2X1lpSWJi
Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống mp3 bài này:
https://www.opendrive.com/folders?MV85MDcwNjE0X0U1RW5p
Bấm vào nút “play” ► để nghe
Bấm vào nút “play” ► để nghe
Trong tiếng Hán Việt, “ân” là ơn, “tứ” là sự ban cho từ nhà vua; “ân tứ” tức là ơn vua ban cho. Từ ngữ này rất thích hợp để gọi những ơn mà Đức Chúa Trời, qua Đức Thánh Linh, ban cho con dân của Ngài. Từ ngữ “ân tứ” được dùng để dịch chữ “χάρισμα” /kha-ris-ma/ [1] của tiếng Hy-lạp. Trong nguyên ngữ, từ ngữ này có nghĩa là ơn được Thiên Chúa ban cho bởi ân điển của Ngài, chứ không phải bởi công đức của người nhận. (“Ân điển” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là: ơn vua ban cho thần dân trong ngày đại lễ của quốc gia, khi dùng trong Thánh Kinh thì có nghĩa là sự thương xót và các phước của Đức Chúa Trời ban cho những kẻ không xứng đáng).
Ân tứ là những đức tính và tài năng đến từ Đức Thánh Linh, mà không cần học tập, là điều mà trước khi tin Chúa chúng ta không có nhưng sau khi tin Chúa chúng ta tự nhiên có được.
Trong thế gian, có những hiện tượng mà chúng ta gọi là thiên tài bẩm sinh, nghĩa là tài năng do Trời ban cho ngay từ khi được sinh ra đời, chứ không phải do tập luyện. Trong ý nghĩa rộng, thì thiên tài cũng chính là ân tứ, tức ơn ban cho của Đức Chúa Trời; nhưng thiên tài không phải là ân tứ được Đức Chúa Trời ban cho con dân Chúa trong Hội Thánh. Có thể nói, thiên tài là dấu hiệu cho loài người nhận biết sự thực hữu và khôn sáng của Đấng Tạo Hóa; và thiên tài được ban cho bất cứ ai. Còn ân tứ là đức tính và năng lực đặc biệt, chỉ được ban cho con dân Chúa trong Hội Thánh.
Ngoài các ân tứ kèm theo các chức vụ do Đức Chúa Trời lập ra trong Hội Thánh, như: nói tiên tri, giảng dạy, chăn bầy… để gây dựng và phát triển Hội Thánh, thì Đức Thánh Linh cũng ban cho mỗi con dân Chúa những ân tứ không kèm theo chức vụ, để ai nấy đều được dự phần trong công việc xây dựng nhà của Đức Chúa Trời. Dù có thể một người có ít hay có nhiều ân tứ Chúa ban, nhưng không ai là không có ân tứ. Vì Thánh Kinh đã khẳng định: Đức Thánh Linh “theo ý Ngài muốn, phân phát riêng cho mỗi người.” (I Cô-rinh-tô 12:11b).
Có tất cả 14 loại ân tứ được Đức Thánh Linh ban cho Hội Thánh, trong đó, có 10 loại ân tứ cùng tên với 10 chức vụ, được ban cho các trưởng lão để họ thi hành các chức vụ trong Hội Thánh. Còn lại bốn ân tứ không nằm trong các chức vụ, được I Cô-rinh-tô 12:7-11 liệt kê như sau:
1. Ân tứ nói lời khôn sáng.
2. Ân tứ nói lời hiểu biết.
3. Ân tứ về đức tin.
4. Ân tứ nhận thức tinh tế các thần.
Người được ban cho các ân tứ kể trên không cần phải là trưởng lão hay chấp sự trong Hội Thánh. Ngược lại, trưởng lão hoặc chấp sự trong Hội Thánh cũng có thể được ban cho các ân tứ kể trên.
Ân Tứ Nói Lời Khôn Sáng.
Trước hết, chúng ta cần phân biệt một số các từ ngữ sau đây:
1. Kiến là gặp, thức là hiểu rõ. Kiến thức là sự hiểu biết do tự mình quan sát, tự mình kinh nghiệm [2].
2. Học là học tập. Học thức là sự hiểu biết do tiếp nhận kinh nghiệm và hiểu biết từ người khác [2].
3. Trí là do suy luận mà biết. Trí thức là sự hiểu biết do suy luận, dựa trên kiến thức, và học thức; tức là, biết phối hợp kiến thức với học thức để suy ra những sự hiểu biết khác chưa gặp và chưa học đến [3].
4. Tri là tự nhiên biết. Tri thức là sự hiểu biết tự nhiên không do quan sát, học tập, kinh nghiệm, hoặc suy luận. Tri thức là sự hiểu biết do Đức Chúa Trời ban cho loài người, còn gọi là “lương tri” tức là sự biết tốt lành tự có bên trong mỗi người [4].
Biết cách áp dụng sự tri thức và trí thức vào trong cuộc sống là khôn sáng. Lời nói khôn sáng là lời nói giúp cho người khác biết cách thức áp dụng tri thức và trí thức vào trong cuộc sống. Đức Thánh Linh ban cho một số người trong Hội Thánh có ơn nói lời khôn sáng để giúp cho tất cả con dân Chúa biết sống cách khôn sáng. Vua Sa-lô-môn là một thí dụ điển hình về người được ơn nói lời khôn sáng.
Ân tứ nói lời khôn sáng bao gồm:
-
Sự dùng Lời Chúa để dạy dỗ, an ủi, khích lệ, góp ý, bênh vực, quở trách, sửa trị người khác.
-
Sự giải thích các điềm chiêm bao và các khải tượng.
-
Sự đáp lời của những kẻ bắt lý về đức tin trong Chúa và về các lẽ thật của Thánh Kinh.
Ân Tứ Nói Lời Hiểu Biết.
Tri thức là sự hiểu biết tự nhiên về Đức Chúa Trời và công việc của Ngài, do chính Ngài ban cho loài người, như Rô-ma 1:18-20 đã khẳng định:
“Cơn giận của Thiên Chúa từ trên trời tỏ ra nghịch lại mọi sự không tin kính và mọi sự không công chính của những người dùng sự không công chính mà đè nén lẽ thật. Bởi vì sự hiểu biết về Đức Chúa Trời được chiếu ra trong họ. Vì Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho họ những sự không thấy được của Ngài, từ sự sáng tạo thế gian là những vật thọ tạo được nhận biết, mà thấy rõ ràng cả năng lực và thần tính còn mãi của Ngài; cho nên, họ không thể chữa mình.”
Mỗi người đều có tri thức cơ bản về Đức Chúa Trời, do Ngài ban cho, đủ để họ tin nhận Ngài và đầu phục Ngài. Tuy nhiên, những ai tin nhận và đầu phục Đức Chúa Trời thì có tri thức nhiều hơn là những ai không tin nhận, không đầu phục Ngài. Trong vòng những người tin nhận Chúa lại có những người có sự hiểu biết (tri thức) sâu nhiệm về Chúa và Lời Chúa hơn người khác, tùy thuộc vào mức độ yêu kính Chúa, vâng giữ các điều răn của Ngài, và lòng khao khát học biết về Ngài.
Đức Thánh Linh ban ơn cho một số con dân Chúa nói ra những sự mầu nhiệm về Thiên Chúa, về Lời của Đức Chúa Trời, để giãi bày những sự cao trọng của Thiên Chúa và những lẽ mầu nhiệm của các giáo lý trong Thánh Kinh.
Lời nói khôn sáng nghiêng về nếp sống Đạo theo đúng Lời Chúa. Lời nói hiểu biết nghiêng về sự hiểu biết sâu nhiệm Thiên Chúa và Thánh Kinh.
Ân Tứ về Đức Tin.
Mỗi người đều được Đức Chúa Trời ban cho một lượng đức tin cơ bản để có thể tin nhận Ngài và đầu phục Ngài. Đức tin đó là đức tin để nhận sự cứu rỗi. Những ai chọn tin nhận và đầu phục Đức Chúa Trời thì sẽ được tăng trưởng trong đức tin; vì đức tin dẫn đến đức tin (Rô-ma 1:17). Những đức tin khác do Đức Thánh Linh ban cho là:
1. Đức tin vào trong Thánh Kinh, công nhận Thánh Kinh là Lời của Đức Chúa Trời và là thẩm quyền tuyệt đối trong đời sống của con dân Chúa:
“Cả Thánh Kinh do Thiên Chúa hà hơi, có ích cho sự giảng dạy, cho sự quở trách, cho sự sửa trị, cho sự giáo dục trong sự công chính… [hà hơi = ban sự sống; thần cảm]” (II Ti-mô-thê 3:16).
“Vì Lời của Đức Chúa Trời sống và năng động; sắc hơn bất cứ gươm hai lưỡi nào; đến nỗi xuyên thấu và phân chia cả linh hồn, tâm thần, các khớp xương và tủy; xem xét những tư tưởng và những ý định của lòng.” (Hê-bơ-rơ 4:12).
2. Đức tin vào trong tình yêu của Đức Chúa Trời, vì thế, luôn cảm tạ Chúa trong mọi sự, vì biết rằng:
“…mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu Đức Chúa Trời, là những người được gọi theo một mục đích của Ngài.” (Rô-ma 8:28).
3. Đức tin vào trong sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, vì thế, luôn giữ mình thánh sạch để được “thấy Đức Chúa Trời”:
“Phước cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ thấy Đức Chúa Trời!” (Ma-thi-ơ 5:8).
“Hãy theo đuổi sự bình an với mọi người, cùng theo đuổi sự thánh khiết. Vì nếu không bởi đó thì chẳng người nào sẽ thấy Chúa.” (Hê-bơ-rơ 12:14).
“Nhưng, như Đấng gọi các anh chị em là thánh, thì các anh chị em cũng phải nên thánh trong mọi cách ăn ở; bởi có chép rằng: Ngươi hãy nên thánh, vì Ta là thánh!” (I Phi-e-rơ 1:15-16).
4. Đức tin vào trong sự công chính của Đức Chúa Trời; vì thế, khi phạm tội thì luôn ăn năn và xưng tội để được Ngài tha tội và làm cho sạch tội; cũng không trả thù ai nhưng nhường sự trả thù cho Đức Chúa Trời:
“Nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Ngài là thành tín công chính để tha thứ cho chúng ta những tội lỗi của chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều không công chính.” (I Giăng 1:9).
“Hỡi những người yêu dấu! Chớ tự mình trả thù nhưng hãy nhường chỗ cho sự giận của Đức Chúa Trời; vì có chép rằng, Chúa phán: Sự trả thù thuộc về Ta! Ta sẽ báo trả! [Phục Truyền Luật Lệ Ký 32:35]” (Rô-ma 12:19).
5. Đức tin vào trong các điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời:
“Hỡi Đấng Tự Hữu Hằng Hữu! Ngài ở gần. Mọi điều răn của Ngài là chân thật. Từ những chứng cớ của Ngài, tôi đã biết từ lâu rằng, Ngài đã lập chúng cho đến vĩnh cửu.” (Thi Thiên 119:151-152).
“Vì Ta phán với các ngươi, thật, cho tới khi trời và đất qua đi, một chấm hay một nét sẽ không qua đi khỏi luật pháp, cho tới khi mọi sự được trọn. Vậy, nếu ai bỏ đi một trong các điều cực nhỏ nào của các điều răn, và dạy người ta làm như vậy, thì người ấy sẽ bị xưng là cực nhỏ trong Vương Quốc Trời; còn ai giữ và dạy các điều ấy, thì sẽ được xưng là lớn trong Vương Quốc Trời.” (Ma-thi-ơ 5:18-19).
“Vậy, chúng ta bởi đức tin mà bỏ luật pháp hay sao? Chẳng hề như vậy! Trái lại, chúng ta làm vững bền luật pháp.” (Rô-ma 3:31).
6. Đức tin vào trong mọi lời hứa của Ba Ngôi Thiên Chúa:
“Vậy nên, hãy biết rằng} Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Thiên Chúa của ngươi, Ngài là Đức Chúa Trời, là Thiên Chúa Thành Tín, giữ sự giao ước và sự từ ái đến ngàn đời cho những ai yêu Ngài và giữ các điều răn của Ngài.” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 7:9).
“Vì Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là thiện. Sự từ ái của Ngài còn mãi, và sự thành tín của Ngài còn đến đời đời.” (Thi Thiên 100:5).
“Chúng ta hãy nắm giữ sự tuyên xưng chẳng chuyển lay của sự trông cậy. Vì Đấng đã hứa với chúng ta là Đấng thành tín.” (Hê-bơ-rơ 10:23).
“Đức Chúa Jesus Christ Đấng y nguyên hôm qua, hôm nay, và cho đến mãi mãi.” (Hê-bơ-rơ 13:8).
7. Đức tin vào trong các sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh và vâng phục Ngài:
“Nhưng Đấng Thần Linh của Lẽ Thật, khi Ngài đến, Ngài sẽ dẫn các ngươi vào trong mọi lẽ thật. Vì Ngài sẽ không tự mình nói, nhưng mọi điều Ngài đã nghe thì Ngài sẽ nói, và Ngài sẽ báo cho các ngươi những sự xảy đến. Đấng ấy sẽ tôn vinh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà giãi bày cho các ngươi.” (Giăng 16:13-14).
“Chớ làm buồn Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì trong Ngài các anh chị em được ấn chứng cho đến ngày cứu chuộc.” (Ê-phê-sô 4:30).
“Ai có tai, người ấy hãy nghe điều Đấng Thần Linh phán với các Hội Thánh.” (Khải Huyền 2:7a, 11a, 17a, 29; 3:6, 13, 22).
8. Đức tin vào trong những lời khôn sáng và hiểu biết, vào trong sự nhận biết các tà linh và phân biệt tinh tế các thần của các anh chị em trong Hội Thánh:
“Hỡi các anh chị em cùng Cha! Vậy thì nên làm thế nào, khi các anh chị em nhóm hiệp mà ai nấy trong các anh chị em có bài thánh ca, có lời giảng dạy, có một ngôn ngữ khác, có sự mạc khải, có sự thông giải các ngôn ngữ? Hãy làm tất cả cho sự gây dựng!” (I Cô-rinh-tô 14:26).
9. Đức tin về sự Đức Chúa Jesus Christ sẽ trở lại để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, trước Kỳ Đại Nạn:
“Vì chính Chúa sẽ từ trời giáng xuống với tiếng kêu lớn, với tiếng của thiên sứ trưởng, cùng tiếng kèn của Thiên Chúa, và những người chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước. Kế đến, chúng ta là những người sống, mà còn ở lại, sẽ cùng họ được cất lên trong những đám mây, để gặp Chúa tại nơi không trung. Như vậy, chúng ta sẽ ở cùng Chúa mãi mãi.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16-17).
“Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn chúng ta cho sự giận, nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Jesus Christ của chúng ta.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:9).
“Vì ngươi đã giữ lời của sự nhẫn nại Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách sẽ đến trên khắp thế gian để thử nghiệm những kẻ ở trên đất.” (Khải Huyền 3:10).
10. Đức tin vào trong sự hiệp một của Hội Thánh Chúa, là sự hiệp một không thể chia thành bè đảng, giáo hội, giáo phái:
“Ấy là tôi nói rằng, mỗi người thuộc các anh chị em nói: Ta thật thuộc về Phao-lô! Ta thuộc về A-bô-lô! Ta thuộc về Sê-pha! Ta thuộc về Đấng Christ! Đấng Christ bị phân rẽ sao? Có phải Phao-lô đã chịu đóng đinh thay cho các anh chị em? Hay là các anh chị em đã chịu báp-tem vào trong danh của Phao-lô?” (I Cô-rinh-tô 1:12-13).
“Vì các anh chị em vẫn là tính xác thịt. Vì giữa nơi các anh chị em có sự ganh tị, tranh cãi, và chia rẽ. Chẳng phải các anh chị em là tính xác thịt, bước đi theo người thế gian sao? Có người nói: Ta thật là môn đồ của Phao-lô. Người khác nói: Ta thuộc về A-bô-lô. Chẳng phải các anh chị em là tính xác thịt sao?” (I Cô-rinh-tô 3:3-4).
Thay thế các tên Phao-lô, A-bô-lô, Sê-pha, Đấng Christ bằng tên của các giáo hội, giáo phái thì chúng ta sẽ thấy rõ ý nghĩa của thực trạng Hội Thánh ngày nay!
“Vì Đức Chúa Trời chẳng phải Đức Chúa Trời của sự loạn lạc mà của sự hòa bình, như trong tất cả các Hội Thánh của các thánh đồ.” (I Cô-rinh-tô 14:33).
“…bắt muôn vật phục dưới chân Đấng ấy và ban cho Đấng ấy làm đầu Hội Thánh trong mọi sự. Hội ấy là thân thể của Đấng ấy. Sự đầy dẫy của Đấng ấy đổ đầy mọi sự trong mọi loài.” (Ê-phê-sô 1:22-23).
Hội Thánh của Chúa được cai trị bởi chính Chúa qua các trưởng lão trong Hội Thánh tại mỗi địa phương chứ không phải do một giáo hoàng, hay tổng hội trưởng, hay giáo hạt trưởng, hay chủ tịch nào hết! Cũng không có Hội Thánh địa phương nào cầm quyền trên Hội Thánh địa phương khác. Không có Hội Thánh mẹ và Hội Thánh con. Hễ nơi nào có Hội Thánh địa phương thì Hội Thánh địa phương đó được chính Đức Chúa Jesus Christ cai trị qua các trưởng lão trong Hội Thánh.
Ân Tứ Nhận Thức Tinh Tế Các Thần.
Lời Chúa dạy cho con dân Chúa rằng:
“Hỡi các con yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần trí, nhưng hãy thử cho biết các đấng thần linh có phải thuộc về Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã vào trong thế gian.” (I Giăng 4:1).
Ngay từ thuở ban đầu của Hội Thánh đã có sứ đồ giả, người chăn giả, giáo sư giả, tiên tri giả, tín đồ giả (A-na-nia, Sa-phi-ra). Họ là những kẻ giả mạo sự thần cảm bởi Đức Thánh Linh (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:2) hoặc bị chính các tà linh điều khiển, để gieo rắc tà giáo vào trong Hội Thánh. Thử các đấng thần linh là tìm xem lời nói, sự giảng dạy, nếp sống của một người là do năng lực của Đức Thánh Linh, hay là do bản ngã xác thịt và tà linh điều khiển.
Làm thế nào để thử cho biết các đấng thần linh? Đó là đối chiếu sự giảng dạy của bất cứ ai với Thánh Kinh, để xem có đúng với Thánh Kinh hay không; và xem xét cách ăn, nếp ở của người đó, có bông trái của tâm thần hay không. Nếu không, thì lời giảng và nếp sống của người đó không bởi Đức Thánh Linh, mà bởi xác thịt hoặc bởi tà linh mạo nhận danh Chúa:
Ma-thi-ơ 7:15-18
15 Hãy coi chừng những tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến với các ngươi, nhưng bề trong chúng là những chó sói hay cắn xé.
16 Các ngươi sẽ nhận biết chúng bởi những trái của chúng. Có bao giờ người ta hái những trái nho từ những bụi gai, hay là những trái vả từ những bụi tật lê?
17 Vậy, mỗi cây tốt sinh trái tốt nhưng cây xấu sinh trái xấu.
18 Cây tốt không thể sinh trái xấu, cây xấu cũng không thể sinh trái tốt.
Ga-la-ti 5:19-23
19 Các việc làm của xác thịt được tỏ ra, ấy là: Ngoại tình, tà dâm, ô uế, phóng đãng,
20 thờ hình tượng, dùng ma túy, thù nghịch, cãi lẫy, ganh tị, thịnh nộ, cạnh tranh, chia rẽ, phe đảng,
21 ganh ghét, giết người, say rượu, thác loạn, cùng các sự khác giống như vậy. Về các sự ấy tôi nói trước với các anh chị em, như tôi đã nói rồi. Những ai phạm các sự ấy thì sẽ không được hưởng Vương Quốc của Thiên Chúa.
22 Nhưng trái của tâm thần là: tình yêu, sự vui mừng, sự bình an, sự nhẫn nại, sự nhân từ, sự ngay lành, đức tin,
23 sự nhu mì, và sự tiết độ. Không có luật pháp nào nghịch lại các sự đó.
“Những người này là đáng quý hơn những người ở Tê-sa-lô-ni-ca. Họ tiếp nhận Lời với mọi sự sẵn sàng của tâm trí, tra xem Thánh Kinh suốt ngày, để xét xem những lời giảng ấy có đúng như vậy hay không.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:11).
Từ ngữ “đấng thần linh” trong mệnh đề “thử cho biết các đấng thần linh” và từ ngữ “thần” trong mệnh đề “nhận thức tinh tế các thần” vừa chỉ về thánh linh của Chúa, vừa chỉ về các tà linh mạo nhận danh Chúa, vừa chỉ về các khuynh hướng tội lỗi, như: kiêu ngạo, tà dâm, tham lam, dối trá. Con dân chân thật của Chúa thì có Đức Thánh Linh ngự trong thân thể mình và được đầy dẫy thánh linh của Chúa. Một người tự nhận mình là con dân của Chúa, tôi tớ của Chúa mà vẫn đang sống trong tội lỗi, thì không hề có thánh linh của Chúa mà chỉ có tà linh mạo nhận danh Chúa cùng các khuynh hướng của xác thịt ưa thích tội lỗi điều khiển người ấy mà thôi.
Đức Thánh Linh ban cho một số người trong Hội Thánh có ơn nhận biết ngay các tà linh đang vận hành trong một người, dù người đó đang nhân danh Chúa để nói tiên tri, đuổi quỷ, và làm ra các phép lạ (Ma-thi-ơ 7:22-23). Những người được ơn nhận thức tinh tế các thần giúp cho Hội Thánh nhận diện các giáo sư giả và tiên tri giả, ngay lập tức, bằng cách chỉ ra những sự dạy dỗ và nếp sống không đúng với Thánh Kinh của những kẻ giả mạo ấy.
Ơn nhận thức tinh tế các thần còn giúp cho người được ơn nhận ra ngay, người đang bị tà linh nhập hoặc người đang rao giảng tà giáo.
Kết Luận
Không một con dân nào của Chúa mà không có ít nhất một ân tứ do Đức Thánh Linh ban cho, để giúp ích cho các anh chị em khác trong Hội Thánh. Vì ân tứ của Đức Thánh Linh được ban cho mỗi người trong Hội Thánh, ai riêng phần nấy (I Cô-rinh-tô 12:11). Người nhận được ân tứ của Đức Thánh Linh có nhiệm vụ quản trị ân tứ đó, dùng ân tứ đó sao cho kết quả, làm ích lợi cho Hội Thánh và được Chúa vui nhận.
Ngụ ngôn về các ta-lâng trong Ma-thi-ơ 25:14-30 cũng bao hàm ý nghĩa về trách nhiệm của con dân Chúa trong việc quản trị các ân tứ Chúa ban. I Phi-e-rơ 4:9-10 dạy rõ:
“Hãy tiếp đãi lẫn nhau, chớ có than phiền. Theo như mỗi người đã nhận được ân tứ, hãy phục vụ lẫn nhau như những người quản lý tốt ân điển đa diện của Thiên Chúa.”
Nguyện mỗi người trong Hội Thánh nhận biết các ân tứ Đức Thánh Linh đã ban cho mình và hết lòng, hết sức dùng các ân tứ ấy để gây dựng Hội Thánh của Chúa.
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
28/09/2013
Ghi Chú
[1] http://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?strongs=G5486: G5486, được chuyển ngữ quốc tế thành (charisma), phiên âm quốc tế là /khä’-rē-smä/, phiên âm tiếng Việt là /kha-ris-ma/.
[2] Cựu Ước dùng chữ “דּעת” H1847. Tân Ước dùng chữ “γνῶσις” G1108. Thánh Kinh dùng chung một từ ngữ cho cả kiến thức lẫn học thức.
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=H1847&t=KJV
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=G1108&t=KJV
[3] Cựu Ước dùng chữ “תּבוּן” H8394. Tân Ước dùng chữ “νοῦς” G3563. Dịch sang tiếng Việt là trí thức.
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=H8394&t=KJV
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=G3563&t=KJV
[4] Cựu Ước dùng chữ “ידע” H3045. Tân Ước dùng chữ “εἴδω” G1492. Dịch sang tiếng Việt là biết hoặc tri thức.
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=H3045&t=KJV
https://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?Strongs=G1492&t=KJV
[A] Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.
-
Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
-
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.
Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.
[B] Dùng các nối mạng dưới đây để tra xem ý nghĩa trong Anh ngữ và nghe cách phát âm của một từ ngữ Hê-bơ-rơ hoặc Hy-lạp trên Internet:
-
Xem nghĩa và nghe cách phát âm các từ ngữ Hê-bơ-rơ: http://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?strongs=H0001
(thay thế 0001 bằng mã số Strong của từ ngữ muốn tra). -
Xem nghĩa và nghe cách phát âm các từ ngữ Hy-lạp: http://www.blueletterbible.org/lang/lexicon/lexicon.cfm?strongs=G0001
(thay thế 0001 bằng mã số Strong của từ ngữ muốn tra).